VIỆT NAM CỘNG HÒA

Archive for April, 2012

Nhiếp ảnh HƯƠNG KIỀU LOAN

Xin giới thiệu các tác phẩm của chị Hương Kiều Loan.
Chân thành cám ơn sự ưu ái  mà chị  đã dành cho Blog LNTH

HươngKiềuLoan:
Những PPS Một Đời

Dấu tích thương đau
& Chiều qua nghĩa trang


Xin bấm vào đây để mở PPS
HươngKiềuLoan : Những PPS Một Đời
Dấu Tích thương đau


Lời Giới Thiệu :

Chị Hương Kiều Loan , sau chuyến đi thăm Tượng đài kỷ niệm chiến tranh Việt nam ( The Vietnam Veterans Memorial Wall ) ở khu Tưởng Niệm Quốc Gia (National Mall)  hồi cuối tháng 4,  gởi đến tôi những bức hình chị chụp được trong thời gian ở D.C.. Mặc dù đã từng đến đó một lần mấy năm trước đây, nhưng khi xem những bức hình vừa nghệ thuật, vừa chứa đựng những ý tưởng của một con người đã từng sống qua những ngày gian khổ nhất của chiến tranh, tôi vẫn thấy lòng mình chùng xuống.

Gần 40 năm trôi qua, mà những ám ảnh của cuộc chiến vẫn không phai nhạt chút nào. Kể cả ở một người phụ nữ chân yếu tay mềm, chưa từng phải xông pha trong lửa đạn, như chị bạn của tôi. Nhưng chị cũng như nhiều người khác, có anh em, người thân, bạn bè , đi vào cuộc chiến. Có người trở về trong chiếc quan tài phủ lá quốc kỳ và hàng chữ tổ quốc ghi công, có người trở về thân thể không lành lặn. Và cũng có người , sau khi tiếng súng chấm dứt, đi vào những trại cải tạo và không bao giờ trở về. Là người chứng của lịch sử, chị mang trong lòng nỗi đau của tất cả những mất mát đó cộng lại.
 
Lặng lẽ xem đi xem lại những bức hình, tôi biết rằng hế hệ chúng tôi không bao giờ có thể rũ sạch được quá khứ để thanh thản sống cho ngày hôm nay. Quá khứ có mặt ngay ở trong góc cạnh mà những bức hình được chụp. Ở mỗi góc cạnh, tượng đài kỷ niệm chiến tranh ấy cho người xem một ý nghĩ khác nhau ( cho những người chưa từng trải qua chiến tranh ) , một hồi ức khác nhau ( cho những người đã hơn một lần nghe tiếng rít của bom đạn, nhìn thấy thây người ngã gục, ngửi thấy mùi thuốc súng khét nghẹt, mùi da thịt thối rữa, cảm thấy cái chết đang đứng ngay bên cạnh mình ).
 
Chúng tôi còn nợ một món nợ không thể trả được cho những người đã chết. Chúng tôi mang cái tội là kẻ sống sót sau một cuộc mê cuồng của lương tâm con người.
Hơn 58 ngàn người lính Mỹ bỏ mình trong chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến tranh nơi mảnh đất xa lạ mà cho đến tận bây giờ, nhiều người dân nước họ vẫn không hiểu tại sao chiến tranh ấy xẩy ra, tại sao nước Mỹ lại dính líu đến, và nhất là tại sao con em họ lại phải trực tiếp chiến đấu trong cuộc chiến tranh ấy, để rồi hàng trăm ngàn người trở về mang thương tích trong hồn, trên người. Trong số đó, hơn 58 ngàn trở thành tử sĩ.
 
Dù vậy, họ còn có bức tường đá đen ghi tên từng người nằm xuống , mang hình thức một nấm mồ tập thể , một đài tưởng niệm chiếm một chỗ vinh dự trong khu đất quan trọng của thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Và hiển nhiên, trong trái tim của những thế hệ mai sau của nước Mỹ.
 
Nhưng còn những đồng đội của tôi, những người đã nằm xuống cho những lý tưởng cao đẹp nhất mà thế hệ chúng tôi hằng ôm ấp, những người cũng can trường chiến đấu cho đất nước đồng bào, cho dân tộc ? Có một chỗ nào vinh dự như thế dành cho họ không ? Có một ngày nào trang trọng trong năm để mọi người tưởng nhớ đến họ không ? Những đồng đội của tôi, như bao người lính khác của các bên tham gia cuộc chiến, cũng đã hy sinh tuổi trẻ, hy sinh cuộc đời cho những ước vọng cao quý nhất mà sự hy sinh ấy phải được coi là xứng đáng , có bức tường nào ghi lại tên tuổi của họ hay không ? Những thế hệ Việt Nam mai sau, có ai còn nhớ đến họ không ?
 
Nhưng, tôi biết chắc một điều, những đồng đội đã nằm xuống của tôi không bao giờ bị quên lãng. Ít nhất, với những người như chị bạn HươngKiềuLoan của tôi qua tác phẩm PPS ” Chiều qua nghĩa trang ” dưới đây .Ngày nào chúng tôi còn sống, còn thở, ngày ấy họ sẽ chưa bị quên lãng. Vì , đó là nghĩa vụ thiêng liêng của kẻ sống sót.

 

Xin bấm vào đây để mở PPS 
HươngKiềuLoan : Những PPS Một Đời
“Chiều qua nghĩa trang
” 

T.Vấn
(Trích : Nhớ những người đã nằm xuống )
 
©T.Vấn 2012

Tháng Tư Lại Về (Hồi-ký của VƯƠNG MỘNG LONG – K20)

Xin mời đọc hối ký  của  Vương Mộng Long, con chim đầu đàn của Tiểu Đòan 82 Biệt Động Quân năm xưa, và tù cải tạo 13 năm của cộng sản Việt Nam
Chân thành cám ơn sự ưu ái của tác giả Vương Mộng Long dành cho Blog LNTH.

Tháng Tư Lại Về

(Hồi-ký của Vương Mộng Long – K20)

     Bây giờ là tháng Tư, trong ký ức tôi những kỷ niệm ba mươi năm trước lại hiện về, rõ mồn một như thể là nó mới xảy ra ngày hôm qua, hôm kia.

     Bây giờ là tháng Tư, tôi lại nhớ đến trận đánh oai hùng cuối cùng của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, trận Xuân-Lộc!

     Tôi bùi ngùi hồi tưởng những giây phút vinh quang của chiến thắng để đời này, cùng những tủi nhục tiếp theo sau đó, khi quê hương nát tan. Những dòng viết lên sau đây là  để tưởng niệm những thuộc cấp của tôi đã ngủ yên giấc tháng Tư, bên con suối Rét (Xuân-Lộc), trên một ngọn đồi không tên ở Long-Thành, và trong đường phố Hố-Nai (Biên-Hòa).

     Đầu tháng Tư năm 1975, Quân Đoàn II không còn nữa. Vì liên đoàn trưởng và liên đoàn phó vắng mặt, nên tôi được chỉ định nhận nhiệm vụ chỉ huy và hướng dẫn Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân từ Quảng-Đức tìm đường ra biển để bắt tay với quân bạn. Khi liên đoàn được trực thăng vận về Phan-Thiết thì Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân được đưa thẳng về sân bay Long-Khánh đặt thuộc quyền xử dụng của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh.

     Ngày đầu đặt chân xuống phi trường Xuân-Lộc (6/4/1975) tôi không hề có ý nghĩ rằng tại nơi này chỉ mấy hôm sau, đơn vị tôi lại có dịp tham dự vào một trận đánh long trời lở đất.

     Ngày xưa tôi rất mê Rommel, tôi đã tìm đọc nhiều sách viết về “Con Cáo Sa- Mạc” này và tôi mơ tưởng có ngày được đánh những trận thần sầu như Rommel đã làm. Trận Xuân-Lộc là lần đầu trong đời lính, tôi được thỏa mãn ước vọng đọ sức so tài với một địch thủ nặng cân hơn về vũ khí, đồ sộ hơn về quân số. Với tôi, trận Long-Khánh là một trận đánh “để đời” cho những tay cầm quân chuyên nghịêp. Trong trận đánh này, mũi dùi tiến công chính bằng cơ giới của Cộng-Quân nhằm đánh chiếm Tòa Hành-Chánh Tỉnh Long-Khánh đã bị Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân bẻ gãy hoàn toàn. Trong khu vực trách nhiệm của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã có ít nhứt là bảy chiến xa Cộng-Sản bị bắn cháy, và một trung đoàn bộ binh địch bị loại ra khỏi vòng chiến. 

     Rạng đông 9/4/1975 trận Long-Khánh bắt đầu. Súng nổ như bắp rang khắp nơi trong thành phố, ngoài vòng đai. Đủ loại đại bác thét gầm, đạn xé gió ào ào tới tấp tưới trên mục tiêu của cả hai phía.

     Những đám cháy không người chữa, lửa càng lúc càng cao, thần hỏa tự do tung hoành. Máy truyền tin ơi ới gọi nhau. Những thân hình ngã xuống, những tiếng hô xung phong nghe rợn tóc gáy.

     Những cánh F 5 thét gào, lên, xuống, thả hết đợt bom này tới đợt bom khác lên đầu địch. Những chiếc Khủng-Long AC 119 bao vùng cả ngày lẫn đêm với những họng đại bác 20 ly gầm rú từng hồi. Đáp lại, địch cũng trả đòn bằng những chùm 100 ly và 37 ly phòng không nở hoa trên mây. Những chiếc T 54 hung hãn khạc đạn không ngừng, những cái lô cốt ngả nghiêng vì trúng đạn đại bác 100 ly của xe tank địch.

     Trong những ngày đầu tháng Tư ở Long-Khánh, một góc địa cầu đã rung rinh vì bom đạn!

     Địch đông gấp ba, bốn lần quân bạn, được T 54 trang bị đại bác 100 ly dẫn đường. Pháo yểm của Cộng-Sản gồm đủ loại hạng nặng: đại bác 130 ly, 122 ly nòng dài, 105 ly, 75 ly sơn pháo, cối 120 ly, cối 82 ly, và phòng không 100 ly, 37 ly. Thậm chí trong ba ngày đầu địch dùng cả phòng không 37 ly để bắn trực xạ vào Trại 181 Pháo Binh của Sư Đoàn 18, nơi tôi đặt Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.

     Ấy vậy mà qua hàng chục đợt xung phong, đoàn chiến xa của “Con Cháu Bác”  cũng không làm cách nào vượt nổi khúc xương khó nuốt là cái doanh trại bé tí teo đó để xông thẳng vào Tòa Hành-Chánh tỉnh, nơi ông Đại Tá BĐQ Phạm Văn Phúc (K10 VB) tỉnh trưởng, đang trợn tròn con mắt theo dõi tên đàn em về từ Pleime chơi trò ú tim với xe tank địch.

     Khi bánh xích của chiếc chiến xa đầu tiên vướng vào cuộn kẽm gai vòng nơi góc rào tây bắc của Trại Pháo Binh 181 thì cũng là lúc đoàn quân xâm lăng khựng lại, hoảng hồn bởi những tiếng thét,

     “Biệt Động! Sát! ” … “Biệt Động! Sát!”

     Lũ giặc hung hăng không ngờ Biệt Động Quân đang có mặt nơi đây!

     Một quả M 72 làm cho chiếc PT 76 xấu số cháy bùng; những cán binh Bắc-Việt tùng thiết vội vàng chạy trối chết về hướng rừng lau.

     Như thế là, chúng tôi đã ra mặt đương đầu với đoàn chiến xa Cộng-Sản Bắc-Việt ngay từ khi trận đánh mới mở màn.    

     “Biệt Động! Sát!”, “Biệt Động! Sát!”

tiếng hô vang dậy một góc trời! Có cả một giang sơn hướng đông nam thị xã cho chúng tôi mặc sức tung hoành !

     Ngày nào cũng như này nấy, sau những màn pháo kích như mưa, T 54 có bộ binh tùng thiết, lại từng đợt, từng đợt ào ào xung phong vào vị trí tử thủ của chúng tôi. Nhưng những tổ chống tank ba người của TĐ 82 BĐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau gốc xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết con cua T 54 này đến con cua T 54 khác.

     Yên chí vì có chỗ dựa lưng là lực lượng bạn ở phía sau, tiểu đoàn tôi đánh vùi với chiến xa địch cả tuần lễ không biết mệt. Toán diệt tank này bị loại, toán khác lên thay. Chúng tôi đã làm cho địch tổn hại nặng nề. Chúng tôi đã đánh cho chúng nó “tà đầu” như ý của Chuẩn Tướng Tư Lệnh mặt trận.

     Săn đánh xe tank là cả một nghệ thuật, nó còn là một cái thú nữa, cái thú vui chết người! Hơ hỏng một chút thôi là mất mạng như chơi. Trong số mười hai Biệt Động Quân Pleime tử trận ở Long-Khánh tháng Tư 1975 đã có bảy người chết trong khi săn đuổi xe tank CSBV.

     Mỗi chiến cụ, mỗi vũ khí đều có chỗ yếu của nó. Cái bộ phận phun khói của xe tank là cái “Gót chân Achilles” của xe tank CSBV. Tất cả những chiếc tank địch bị TĐ 82 BĐQ tiêu diệt trong trận Xuân-Lộc đều bị bắn từ phía sau đuôi, nơi phun khói.

     Đánh tank cũng có qui luật. Việc đầu tiên là “tỉa” tên xạ thủ 12,8 ly, nó là tai mắt của chiếc tank, nó có một chân trái hoặc phải bị khóa vào dây xích trên ghế phòng không. Việc thứ nhì là “bung” một trái lựu đạn khói hoặc lân tinh làm màn chắn che mắt cái tank bạn của nó ở cách nó không xa; cây phòng không trên chiếc tank thứ nhì là tử thần gọi chết. Việc thứ ba thật là giản dị, cứ đứng xổng lưng bóp cò cây M 72 nhắm ngay phần phun khói sau đít cái tank mục tiêu, đây là phần mỏng nhất, dễ bắn thủng nhất của chiến xa. Một tiếng “bùm!” rồi tiếp sau đó là xăng và đạn trong xe cháy nổ “lóc! tóc! ùm! ùm!” ngọn lửa dâng cao, khói dâng cao. Xong !

     Mỗi lần một chiếc PT 76 hay T 54 bị bắn cháy, cột khói chưa lên cao khỏi ngọn cây thì người Anh Cả của chiến trường đã có mặt trên vùng.

     “Tiên Giao đây Hằng Minh gọi!”

     “Hằng Minh, Tiên Giao nghe!”

     “Come on! Gắng lên nghe em! Đánh cho nó tà đầu hết cục cựa! Okay?”

     “Vâng, tôi nghe 5, đánh cho nó tà đầu hết cục cựa!”

     “Okay! You’re a man! Don’t let ’em run away! Okay?”

     “Vâng, không cho nó ôm đầu mà chạy!”

     “Kill ’em! Kill ’em! Okay!”

     “Vâng! Đây là cái tank thứ (2) (3)… đó nghe Hằng Minh! Nó vào cái nào, tôi hạ cái nấy nhé!”

     “Okay! I like the way you fight!”

     “Vâng, tôi nghe rõ 5!”

     “You’re great! You’re excellent!”

     Sau khi thị sát trận địa và khích lệ tinh thần tôi, người Anh Cả bay sang mặt trận hướng tây thị xã, trên đường bay, ông liên tục đối thoại với vị chỉ huy trưởng phòng thủ Xuân-Lộc, Đại Tá Lê Xuân Hiếu (K10 VB) Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43, Sư Đoàn 18 Bộ Binh cũng bằng ngôn ngữ nửa Việt nửa Mỹ.

     Người Anh Cả của mặt trận này là Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo (K10 VB) Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Ông lấy danh hiệu đàm thoại là Hằng Minh, tên người em ruột của ông, Trung Tá Lê Hằng Minh là người hùng TQLC, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 (Trâu Điên) năm xưa đã tử trận trên chiến trường Thừa-Thiên.

     Tiên Giao là tên đứa con gái áp út của tôi, cũng là danh xưng truyền tin tôi chọn cho mình trong trận đánh này.

     Một ngày giữa tháng Tư năm 1975, ngoài vòng đai phòng thủ, một chiếc T 54 chạy lạc loài. Cái ống khói của nó lãnh trọn một quả M 72 của toán diệt tank của Đại Đội 1/ TĐ 82 BĐQ. Anh binh nhì Phan Thọ trong toán hộ tống của TĐT 82 BĐQ cùng với ông phóng viên nhà báo lao vụt về hướng súng nổ. Ít phút sau tôi nghe choang choác, tiếng phòng không 12,8 ly nổ dòn ngoài xa. Trong máy PRC 25 tiếng Th/úy Đặng Thành Học, ĐĐT 1/82 BĐQ báo cáo, thằng Thọ bị thương nặng, xin tản thương.

     Thì ra anh B2 Thọ gan dạ này thấy chiếc T 54 đã nằm bất động; anh leo lên gỡ khẩu phòng không đem về cho thầy. Không ngờ còn một chiếc chiến xa T 54 khác nằm ẩn trong bụi lau cách đó không xa. Thấy anh đứng nghênh ngang sau pháo tháp, nó quạt cho anh một tràng 12,8 ly. Anh rơi xuống đất như con chim bị ná. Ruột anh đổ ra lòng thòng, máu tuôn như xối.

     Anh phóng viên và một người lính trong toán diệt tank khiêng Thọ về sân bay. Trung Sĩ 1 Chiến, y tá của tiểu đoàn phải dùng cả một tấm băng lá to bằng hai bàn tay xòe để che cho ruột của Thọ khỏi phòi ra.

     Mặt Thọ tái xanh, môi run run,

     -Thiếu Tá đừng la em nhé! Em thấy cây súng dễ ăn quá, không ngờ tụi nó bắn lén em!

     Tôi an ủi Thọ,

     – Ừ! Thiếu Tá không la em đâu, nằm im đó chờ xe, Hoàng Long sẽ đem em đi tản thương!

     Hoàng Long là danh xưng của Đại Úy Ngũ Văn Hoàn, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.

     Tôi một mặt lo xin pháo binh trong vòng đai trực xạ vào vị trí chiếc xe tank còn lại, một mặt điều động ĐĐ1/TĐ3/Trung Đoàn 43 BB đánh bọc bên phải tiếp tay cho Thiếu Úy Học ĐĐ1/82 có thì giờ dùng kẽm gai concertina quây quanh chiếc xe mới bị bắn cháy. Chỉ có concertina mới ngăn cản hữu hiệu được bước tiến của chiến xa địch. Con đường độc nhất để tiến quân bằng xe tank của địch nhắm vào sân bay Long-Khánh đã bị đan chằng chịt kẽm gai vòng.

     Chiếc tank mới bị cháy nằm hơi xa ngoài hàng rào và nó là chiếc T 54 thứ tư bị sơn lên pháo tháp dòng chữ “Tiểu Đoàn 82 BĐQ diệt tank”.

     Năm 1981 tại Trại Cải Tạo Z30 C Hàm-Tân, có một thiếu úy thuộc LĐ 81/ BCND tên là Nguyễn Văn Vinh tìm gặp tôi, anh nói,

     “Tháng 5 năm 1975 em bị nhốt ở Long-Khánh, em ở trong toán tù binh bị bắt đi chùi những chữ ‘Tiểu Đoàn 82 BĐQ diệt tank’ viết trên bốn cái tank T 54 và một cái lội nước PT 76 ở bìa rào phòng thủ Xuân-Lộc. Công nhận tiểu đoàn anh đánh tank tuyệt quá!”

     Chiếc xe tản thương của Trung Đoàn 43 đã đưa B2 Phan Thọ về ngã ba Tân-Phong; tháp tùng có Đại Úy Hoàn, anh phóng viên nhà báo và Trung Sĩ 1 Chiến, y tá Biệt Động Quân. Khi quay trở về vị trí phòng thủ, ông Đại Úy Tiểu Đoàn Phó kể lại chuyện dưới đây.

     Xe tới BTL/SĐ 18 /HQ thì Thọ rất mệt vì máu ra đã nhiều, anh xuống xe ngồi dựa lưng vào một gốc xoài, chờ Đại Úy Hoàn đi tìm sĩ quan quân y sư đoàn xin tải thương.

     Bất ngờ Tướng Tư Lệnh từ trong lều bước ra; thấy Thọ, ông hỏi,

     – Em là lính của ai? Bệnh gì? Muốn về Sài-Gòn hả?

     Thọ im lặng mở tấm băng lá cho Tư Lệnh thấy vết thương của mình; bất ngờ bộ ruột của anh trào ra khỏi miệng vết thương, máu anh tuôn xối xả.

     Anh y tá vội thưa,

     – Trình Thiếu Tướng, anh này là lính Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân, ảnh bị phòng không bắn khi đang gỡ khẩu 12,8 ly trên cái chiến xa vừa bị bắn cháy. Thiếu Tá em cho phép ảnh được tản thương về Sài-Gòn đó Thiếu Tướng.

     Tư Lệnh la lớn,

      – Quân y đâu băng bó cho chú em ngay!

     Ông quỳ xuống tự tay ấn từng đoạn ruột của người lính vào bụng của anh ta. Người y tá vội vàng làm phận sự của mình tiếp tay với Tư Lệnh.

     Đại Úy Hoàn vừa quay lại chưa kịp chào trình diện, thì Tư Lệnh đã lớn tiếng,

     – Phi hành đoàn C&C đưa gấp chú em này về Cộng-Hòa cho tôi.

     Quay qua Thọ, Tướng nhẹ giọng,

     – Em là lính của Thiếu Tá Long, em can đảm lắm, qua sẽ cứu em!

     Thọ lí nhí,

     – Cám ơn Thiếu Tướng!

rồi nó quay qua Đại Úy Hoàn,

      – Cho em điếu thuốc đi Đại Úy.

     Đại Úy Hoàn chưa kịp móc túi lấy thuốc cho Thọ thì Tướng đã có sẵn điếu thuốc lá đưa vào môi người lính can trường. Ông một tay che gió, một tay bật lửa mồi thuốc cho Thọ.

     Mặt Thọ tái xanh, những thớ thịt trên má bắt đầu co giật. Thọ hút một hơi thuốc dài, mắt Thọ long lanh. Chợt anh ngoác miệng cười,

     – Khẩu phòng không còn mới cáo cạnh, nước thép xanh biếc thấy mê luôn Đại Úy ơi!  

     Ông Đại Úy Hoàn an ủi,

     –  Giờ này chắc tụi nó đã mang khẩu súng ấy về nộp cho Thiếu Tá rồi. Mày nói đúng đó, nó còn mới cáo cạnh, hèn nào mày không mê nó đến đổ ruột luôn!

     Thọ cúi đầu cười xẻn lẻn.

     Cái bảng nhôm sơn đỏ có sao trắng được lật mặt ra đàng sau trở thành cái bảng nhôm màu trắng thanh khiết bên hông chiếc C&C. Không bảng sao, cái trực thăng chỉ huy trở thành giản dị bình thường như ngàn vạn chiếc tàu khác.

     Trước khi lên máy bay, Thọ còn ra dấu cho Đại Úy Hoàn lại gần để anh nhắn nhủ một điều gì quan trọng lắm,

    – Em đi rồi không có ai pha cà phê sáng cho Thiếu Tá. Đại Úy nhớ nhắc thằng Bích khi pha cà phê cho Thiếu Tá thì cho ít đường thôi! Thiếu Tá không thích uống ngọt lắm đâu. Nhờ Đại Úy nhắn với Thiếu Tá rằng, khỏi bịnh, xuất viện là em lên với Thiếu Tá ngay. Thôi em đi đây!

      Không rõ Tư Lệnh có nghe lời nhắn của anh lính Biệt Động Quân gởi cho thầy của anh ta không, nhưng rõ ràng đôi mắt Tư Lệnh rưng rưng. Chiếc trực thăng khuất trong vòm mây từ lâu mà cánh tay Tư Lệnh còn vẫy theo chưa hạ xuống.

     Đây không phải là lần đầu cái can trường của thuộc cấp làm tôi cúi đầu kính phục. Mà đã nhiều lần trong quá khứ, dưới quyền tôi không thiếu những người lính dũng cảm như thế. Thời 1966 vùng triền sơn Quảng-Nam đầy rẫy những họng súng bắn tỉa. Cứ nghe tiếng “tắc cù!”  là chú Hạ Sĩ Nguyễn Hồng Phong lại đưa cái thân cao ngỏng còng queo của chú che cho tôi, chú nói,

     – Em phải che cho Thiếu Úy, em trúng đạn có mình em chết, Thiếu Úy trúng đạn cả chục người chết theo.

     Rồi cũng có lần chú bị bắn toác nón sắt vì đưa thân che chở cho tôi, khi đại đội tôi chạm địch gần ga Hương- An, Tam- Kỳ.

     Năm 1969 trong trận Bình-Tây 48 dưới chân đỉnh Chư-Pa, Đại Đội 1/TĐ11 BĐQ của tôi đánh cứu viện cho Đại Đội 4/ TĐ11 BĐQ của Tr/ Úy Nguyễn Lạn (K20 VB). Trận này quân nhân đơn vị của tôi và Lạn bị thương khá nhiều.

     Từ đầu trận, người lính mang đồ ngủ của tôi, anh B1 Trung đã bị bắn bể hông phải. Đã có nhiều chuyến tải thương đi mà Trung vẫn còn ngồi chờ trên bãi đáp. Tôi hỏi tại sao anh không lên máy bay về bịnh viện, anh phân bua,

     – Em chờ xem có ai bàn giao đồ ngủ của Trung Úy xong, em mới yên lòng đi về.

     Tôi ngỡ ngàng kêu lên,

     – Trời ơi! Sao mày khờ thế! Cứ quăng đại cho ông thường vụ! Lên tàu ngay! Luẩn quẩn ở đây đến chiều, hết tàu tản thương. Qua đêm máu ra hết thì chết!

     Trung giao đồ ngủ của thầy anh ta cho ông thường vụ đại đội, bàn giao kỹ lưỡng nhiệm vụ của mình rồi mới chịu lên chuyến tải thương cuối cùng về Quân Y Viện Pleiku. Vết thương của anh nặng lắm, sau ngày lành bệnh, anh B1 Trung đã được giải ngũ lãnh tàn phế 100%.

     Những người lính của tôi dễ thương như thế ấy! Họ chỉ biết vâng lời người chỉ huy mình, bất kể đúng hay sai. Cấp chỉ huy ra lệnh tử thủ, họ tử thủ; cấp chỉ huy ra lệnh rút lui, họ rút lui; không ý kiến, không bàn cãi phán xét mà chỉ có tuân lệnh thi hành. Họ đã cùng tôi bao tháng ngày đồng hành qua những chiến trường rực lửa, từ Pleime qua Kiến-Đức tới Lâm-Đồng rồi về Xuân-Lộc. Những người lính của tôi không màng đến vinh quang, mà chỉ phụng sự cho cái vinh quang của người chỉ huy mình. Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ, nợ với tổ quốc, nợ với đồng bào, và nợ với thuộc cấp của mình, những người đã hi sinh cho cái vinh quang mà mình đã một thời nhận được. Là người cầm quân, vinh quang là cứu cánh, vinh quang là ý nghĩa của cuộc sống.

     Tôi không có dịp tham dự vào cuộc phản công tái chiếm chợ Xuân-Lộc, khách sạn Long-Khánh và Cua Heo cũng như những cuộc giao tranh trong khu trung tâm thị xã. Tin tức liên quan đến mặt trận hướng tây tôi hoàn toàn mù tịt. Suốt mười ngày dầu sôi lửa bỏng tháng Tư Long-Khánh 1975, TĐ 82 BĐQ chỉ biết có mặt trận đông nam thị xã mà thôi.

     Bên hướng đông suối Rét là Lữ đoàn 1 Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh (K15 VB) làm búa. Bên hướng tây suối Rét là cái đe do Thiếu Tá Vương Mộng Long (K20 VB) chỉ huy, gồm TĐ 82 BĐQ tăng cường thêm một đại đội của TĐ3/ 43 BB, một đại đội Địa Phương Quân của Tiểu-Khu Long-An và một đại đội Điạ Phương Quân từ Bình-Long di tản về.

     Làm đe thì đỡ công di chuyển, đỡ mệt thân xác, dễ kiểm soát đội hình, quân số. Nhưng làm đe cho Dù thì quả là mất mạng như chơi! Pháo Dù nó tưới như mưa, làm đe bị lãnh tản đạn là thường. Trong trận này có ba người lính Thượng của tôi thiệt mạng vì tản đạn của pháo Dù. Tháng Tư 1975 tôi đã chôn họ ngay bên dòng suối Rét. Tôi đã cầu nguyện cho linh hồn họ yên vui trên đường phiêu du về nguyên quán Pleiku.

     Từ ngày đầu chiến dịch, một anh phóng viên chiến trường của một tờ báo ở Sài-Gòn, đã có mặt bên tôi không rời. Anh có dáng lòng khòng dong dỏng như một triết nhân. Anh mặc đồ trận, đội nón sắt, nhưng không trang bị súng ống. Anh chỉ có cái máy ảnh, quyển sổ tay, và cây bút làm hành trang. Ngày mà đạn pháo Dù bao trùm suối Rét cái lều của anh nhà báo rách toang. Cũng may anh thoát chết vì lúc đó anh đang ở với ĐĐ1/TĐ 82 BĐQ của Th/Úy Học, anh bận chụp hình cái tank cháy ngày hôm trước nơi hàng rào bắc của Trại PB 181.

     Giữa tháng Tư, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tung ra nhiều đợt tấn công mãnh liệt nhắm vào một trung đoàn Cộng -Sản Bắc-Việt trong đồn điền chôm chôm hướng đông nam suối Rét. Chúng tôi ở bên này bờ, hào hứng quan sát pháo Dù nổ rền trời phía bờ bên kia.

     Từ nơi đồn điền Thống Tướng Tỵ, cán binh CSBV từng tốp chạy túa ra bìa rừng, nhảy ùm xuống suối Rét. Những tay súng Pleime nhả đạn từ từ và chính xác. Những người lính Bắc-Việt bật lên khỏi mặt nước như những con cá trắm cỏ, quẫy mạnh một lần rồi chìm luôn…

     Những tiếng hô “Biệt Động! Sát!”  hòa lẫn tiếng súng M 16, M 60 làm cho một số cán binh CSBV vừa ló đầu ra trảng trống đã vội chạy ngược lại phía bìa rừng. Rồi cũng có người cầm cờ trắng chạy từ trong bìa rừng ra bờ suối, súng AK dơ lên cao khỏi đầu: Thế là họ đầu hàng!

     – Thôi! Vứt súng xuống suối rồi lội sang đây! Vứt súng xuống suối! Dơ tay lên cao khỏi đầu, lội sang đây! Nghe rõ chưa?

      – Dạ cháu nghe rõ ạ!

     Tôi và người phóng viên nhà báo mồi cho ba anh cán binh CSBV ba điếu thuốc lá. Họ còn rất trẻ, chỉ độ mười lăm. Bơ phờ mất ngủ, mắt quầng thâm.

     – Cậu mấy tuổi rồi?

     – Dạ thưa thủ trưởng, cháu lên mười sáu ạ!

     – Sao đi bộ đội sớm thế? Mới mười sáu mà đã đi lính rồi à?

     – Cháu là thanh niên xung phong. Thủ trưởng của cháu nói rằng Miền Nam giải phóng rồi, chúng cháu chỉ vào để tiếp thu thôi ạ!

     – Thế đánh nhau mấy ngày nay cậu thấy thế nào?

     – Thưa thủ trưởng, nhà cháu sợ lắm ạ!

     – Thôi đừng sợ, chốc nữa có người đưa cậu về Sài-Gòn. Hết chết rồi, đừng sợ!

     – Thủ trưởng có nói thật không hử thủ trưởng? Nhà cháu sợ chết lắm thủ trưởng ơi!

     Đôi mắt trẻ thơ ngơ ngáo. Ngón tay cậu bé run run cầm điếu thuốc thơm đưa lên môi, chỉ sợ nó rơi… Thì ra thế! Những cậu bé này được đưa vào đây là để … tiếp thu Miền Nam !

     Một hôm, Đại Tá Hiếu gọi tôi vào máy để “check fire”. Tôi liếc qua nơi cần hỏa tập. Ồ! Cái tọa độ ấy chẳng liên hệ gì tới quân bạn, không trở ngại!

     Rồi Đại Tá Hiếu lại gọi tôi vào máy để “check fire”. Rồi tôi lại trả lời, “không trở ngại!” Cứ vậy, ba bốn lần hỏi qua, đáp lại. Chiều hôm ấy tôi nghe một tiếng “ùm!” âm vang hướng đông bắc.

     Tôi đã từng nghe B 52 đánh cận phòng nhiều lần trên chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2. Tôi đã nghe quen tiếng những trái bom 500 cân Anh, 300 cân Anh thun thút từ trên mây xanh, những tiếng “ủn!… ủn!” theo đuôi nhau chui trong không khí kiếm mục tiêu. Nghe tiếng bom nổ chùm, tôi có thể phân biệt được đó là Box 3km x 1km, Box 2km x 1km, hoặc Box 1km x 1km.

     Tiếng “ùm!” lần này có vẻ như âm vang của một Box B 52 đánh gọn ô vuông mỗi chiều 1km x 1km ngày nào? Tôi thấy một cột bụi đỏ dâng cao dần dần tới mây. Trời cao và mây xanh ngắt. Có một chiếc C 130 còn lượn trên vùng. Tôi nghĩ, chắc chiếc C 130 là tác giả cú “ùm!” vừa qua.

     Mãi sau này tôi mới biết tiếng “ùm!” đó là một trong hai trái CBU 55 (hay CBU 85) được xử dụng trong trận Xuân-Lộc. Một trái được thả xuống vùng Suối Tre hướng Tây Bắc Long-Khánh, tôi không nghe báo, trái thứ nhì thì được thả xuống chận đường kẻ thù đang nhắm tiến vào khu vực phòng thủ của Trung Đoàn 43/ SĐ18 BB trong đó có TĐ 82 BĐQ tăng cường.

     Mặt trận tạm yên thì phái đoàn Thượng Hạ Viện từ Sài-Gòn đã bay ra tới tận cuối sân bay Long-Khánh để ủy lạo những người lính Vùng 2 đang đổ máu bảo vệ mảnh đất còn lại của quê hương nơi Vùng 3. Những gói quà, những cái bắt tay, những lời hứa hẹn khen thưởng làm ấm lòng người chiến sĩ.

     Tôi nằm trên võng dưới tàn cây điều lộn hột, lòng buồn nhớ thương vợ con tôi không rõ giờ này ra sao. Những người lính dưới quyền tôi cũng vậy, mặt người nào cũng không vui, thân nhân chúng tôi đã rơi vào tay địch nơi chân trời cũ xa xôi Ban-mê-Thuột, Pleiku…

     Một sớm mai, từ hướng đông, chiến xa địch dàn hàng tiến về vòng đai phòng thủ Xuân-Lộc. Đại Tá Hiếu gọi tôi và cho biết lần này bộ binh tùng thiết của CSBV có vẻ đông hơn những đợt tấn công trước đây nhiều.

     Pháo binh bạn đã bắn tối đa để chận địch. Tôi thấy vài cột khói bốc lên từ những chiếc tank bị cháy. Có một chiếc T 54 bị bắn đứt xích cách vòng rào trại  PB 181 không xa lắm. Chúng tôi nghe tiếng búa của bộ đội CSBV gõ trên thành xe, chúng đang sửa cái xe tank bị đứt xích!

     Pháo binh từ trong vòng đai liên tiếp trực xạ hướng vào chiếc T 54 bị thương. Địch không phản ứng. Tiếng búa chạm sắt cũng im. Họ án binh chờ lệnh? Rồi bên quân bạn cũng không thấy ai yêu cầu tác xạ thêm, pháo binh của ta cũng tạm ngưng.

     Từ trưa tới chiều chạng vạng, mặt trận yên tĩnh lạ lùng. Khi mặt trời vừa lặn, pháo địch từ nhiều hướng khác nhau tập trung trên thành phố Xuân-Lộc, đủ loại súng nặng, bắn thẳng, cầu vồng, có điều khác lạ là tất cả đều là pháo tầm xa (?) Pháo địch kéo dài cỡ một giờ đồng hồ rồi im hơi.

     Màn đêm buông xuống, tôi nghe tiếng động cơ chiến xa nổ rộ, rồi nghe tiếng bánh sắt chạm đường đất đá, âm vang kéo dài từ gần rồi xa dần. Toán tiền thám BĐQ ngoài vòng đai báo cáo, chiếc T 54 bị đứt xích đã được kéo đi và cả đoàn chiến xa dàn hàng ngang ngoài vòng đai phòng thủ cũng đang rút đi (?) Tôi báo cáo sự việc này cho Đại Tá Hiếu, ông cũng ngạc nhiên không hiểu vì lý do gì, địch đang chuẩn bị một cuộc sống mái thì đột nhiên đổi hướng.

      Những ngày sau đó tình hình im ắng như tờ, những con ve sầu trên ngọn điều lộn hột cất tiếng hòa ca điệu cuối Xuân trong khung cảnh thật là tĩnh mịch êm ả đồng quê. Những cây chuối trên đồi rủ lá. Những sợi khói lam từ mái rạ bay cao.

     Khoảng ba giờ chiều ngày 20/04/1975 Đại Tá Hiếu cho xe ra sân bay đón tôi vào họp hành quân. Ông rầu rầu,

    – Ông Toàn ra lệnh cho chúng ta bỏ Long-Khánh rút về Bà-Rịa, ông Đảo vừa được lệnh và cho tôi biết. Tôi đón chú vào cho chú hay để mà chuẩn bị, chút nữa ông Đảo họp với ông Toàn xong trở về sẽ có lệnh chi tiết sau.

     Tôi ngồi với Đại Tá Hiếu một lúc thì có điện thoại của Tư Lệnh, đại khái ông cho biết, lệnh bỏ Long-Khánh là từ Tổng Thống. Địch không vây Long-Khánh nữa mà đi bọc về đánh Biên-Hòa và thủ đô Sài-Gòn nên quân ta phải bỏ Xuân-Lộc, về bảo vệ Thủ-Đô. Tướng Đảo cực lực phản đối vụ triệt thoái này nhưng Tổng Thống và Tướng Toàn đã quyết định cắt tiếp ứng, tiếp tế, yểm trợ cho SĐ 18 để ép sư đoàn này thi hành lệnh lui binh. Tôi được lệnh rút TĐ 82 BĐQ về ngã ba Tân-Phong trước tám giờ đêm chờ lệnh.

     Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân cuốn lều, lấp hầm hố phòng thủ khi đêm rơi.

     Cuối tháng Ba năm 1975 chúng tôi đã làm việc này ở Kiến-Đức, chúng tôi đã bỏ lại sau lưng một trận địa, một kẻ địch kinh hoàng đến độ hai ba ngày sau mới dám mon men vào điểm trú quân đã bỏ trống của đơn vị Biệt Động Quân một thời ngang dọc Vùng 2. Tôi đã rút đi, theo lệnh, để lại Kiến-Đức hàng chục nấm mồ thuộc cấp của mình bên QL 14. Quận Kiến-Đức và Đồn Pleime cách nhau không bao xa, cũng còn là trong lãnh thổ Vùng 2!

     Lần này mười hai người lính của Pleime ngủ lại bên bờ suối Rét, lạ lẫm quê người, quanh đây chỉ có điều lộn hột, chuối, xoài và đồng cỏ mênh mông. Nơi này thật xa những ngọn núi hùng vĩ Chư Gô, Chư Don, thật xa con sông mơ màng Ia Meur lững lờ quanh năm. Công lao khó nhọc dặm trường nửa đường đứt gánh.

     Đơn vị tôi vừa di chuyển ngang cổng Tòa Hành-Chánh tỉnh Long-Khánh thì Đại Tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng đã chờ ở đó, Đại Tá yêu cầu tôi cho Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đi với đoàn quân của Tiểu-Khu Long-Khánh, và ông xin được tháp tùng tôi trong cuộc rút lui.

     Tôi từ chối với lý do, “Đại Tá có cả một tiểu khu, Đại Tá phải chỉ huy họ, là cấp chỉ huy của họ, Đại Tá không thể đi theo tôi mà để họ không người chỉ huy.”

     Đại Tá, hiểu ra, cám ơn tôi đã có lời nhắc nhở nhiệm vụ của ông. Chúng tôi bắt tay từ biệt.

     Mãi tới năm 1979 tôi mới gặp lại Đại Tá Phúc trong Trại Cải Tạo Nam-Hà A ngoài Bắc. Trong cuộc rút binh, Đại Tá Phúc đã bị bắt khi đi được nửa đường Xuân-Lộc, Bà-Rịa và bị giữ trong trại tù từ ngày đó.

     Ra tới QL 1 tôi phải cho quân đi hàng một và cách lề trái đường vài chục mét. Khi đến ngã ba Tân-Phong tôi được lệnh ngừng lại chờ lệnh. Trên QL 1 những chiếc xe cam nhông chở đầy ắp lính ngồi hai hàng, xe chạy như bay, chiếc này bám đuôi chiếc khác. Xe mở đèn pha sáng choang. Có những người lính bộ binh lưng mang nặng ba lô, súng đeo vai đi sát hai bên đường.

     Một anh lính bộ binh chạy từ bên phải sang bên trái đường, bị trượt chân té, văng nón sắt. Chiếc xe cam nhông chạy qua, đè ngang hai chân anh. Anh lính la hét đau đớn được một câu thì chiếc xe cam nhông thứ hai đã đè đủ năm chiếc bánh bên trái qua người anh ta. Tôi nghe rõ tiếng “rốp!” khi bánh xe lăn qua đầu anh. Cái xác dẹp lép của người lính cách chân tôi khoảng hai mét. Tôi kéo xác anh vào lề đường. Cái căn cước quân nhân cho tôi biết tên người xấu số là Nguyễn Thành Long, sinh quán Long-An.

     Hai bên đường, người đi như chảy hội, giữa đường, xe cứ nối đuôi nhau.

     Tôi chờ khoảng mười phút thì Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 cùng người liên lạc truyền tin của ông tới gặp tôi. Tháp tùng Đại Tá Hiếu còn có ông Trung Tá Linh, Sĩ Quan Phụ Tá Hành Quân của Trung Đoàn 43. Đại Tá Hiếu cho tôi biết, Chuẩn Tướng Đảo chọn TĐ 82 BĐQ làm lực lượng bảo vệ Bộ Tư Lệnh di chuyển.

     Không lâu sau đó, một chiếc Jeep trờ tới, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo cùng bốn Quân Cảnh nhảy xuống, chiếc xe chạy đi ngay.  

     Chúng tôi xác định nhiệm vụ, trao đổi tần số rồi lên đường.

     Nhiệm vụ được phân chia rõ ràng: Tướng Tư Lệnh chỉ huy toàn thể trận điạ. Đại tá Hiếu chỉ huy cánh quân của TĐ 82 BĐQ và TĐ1/43 BB của Thiếu Tá Nguyễn Khắc Tung (K20 VB) đi theo sau. TĐ 82 BĐQ chịu trách nhiệm bảo vệ Chuẩn Tướng Tư Lệnh trên đường di chuyển. TĐ 3/43 BB tùng thiết, được đặt dưới quyền Trung Tá Nô, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ-Binh. Riêng TĐ 2/43 BB của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế đóng quân trên núi Thị phải gánh chịu nhiệm vụ nặng nề nhất của cuộc triệt thoái, làm lực lượng đoạn hậu của SĐ 18 BB.

     Đường Liên Tỉnh Lộ Long- Khánh, Bà- Rịa nhỏ và hẹp. Ra khỏi ngã ba Tân-Phong một đỗi, tôi thấy những bành đạn pháo binh xếp dọc lề đường, đây là bãi tiếp tế của sư đoàn, xa về hướng nam để đánh lạc pháo địch. Tuy vậy mới chiều hôm ấy địch đã phát giác bãi này, và pháo binh CSBV đã đánh phá đoạn đường này cả giờ.  

     Chúng tôi đi bên trái đường, thỉnh thoảng chân tôi đá phải những xác người nằm chết rải rác đó đây, những người dân chạy giặc, trúng đạn pháo chết oan, những cái xác còn mềm, có cái còn toàn thân, có cái chỉ còn một phần hình hài con người.

     Tôi đi ngang qua đồn điền Michelin vào lúc công nhân ở đây đã lên xe chạy từ lâu. Những gia đình chậm chân thì khăn gói tất tả, vợ chồng con cái hối hả lên đường. Có những bé thơ chừng năm, bảy tuổi, chân bó áo bó quần từng cục vải to. Tội nghiệp cho bé, chân non đường dài!

     Tôi chạnh nhớ đến ba đứa con tôi ở Ban-Mê-Thuột, đứa lớn nhất mới bốn tuổi, vợ tôi lại đang mang bầu. Ban-Mê-Thuột đã rơi vào tay giặc từ đầu tháng Ba năm 1975. Gia đình tôi đã rơi vào tay giặc khi tôi gắng sức bảo vệ gia đình những người khác ở Quảng-Đức.

     Đầu tháng Ba, khi có tin địch sắp đánh Ban-Mê-Thuột, tôi đã gởi một cái điện khẩn cấp cho BCH/BĐQ/QK2 và BTL/QĐII cho phép tiểu đoàn tôi về phòng thủ thị xã này. Không ai trả lời cái điện cầu xin trên. Đây là nỗi ân hận sâu xa nhất trong đời lính chiến của tôi, đó cũng là nỗi buồn ám ảnh suốt đoạn đời còn lại của người chỉ huy trực tiếp của tôi, Chuẩn Tướng BĐQ Phạm Duy Tất.

     Đoạn đường vài chục cây số từ Tân-Phong đi Bình- Ba, Bà- Rịa thực ra không có gì là đáng ngại đối với những người lính sơn cước của TĐ 82 BĐQ. Nhưng cái nhiệm vụ nặng nề bảo vệ Tư Lệnh Hành Quân đã làm tốc độ tiến quân của chúng tôi giảm đi nhiều so với khả năng.

     Đi chừng nửa giờ tôi lại phải cho đơn vị dừng quân bố trí chờ đơn vị theo sau. Quân nhân của những đơn vị khác đi hàng một trên đường, vậy mà vẫn chậm hơn nhiều so với đội hình tác chiến một hàng dọc của TĐ 82 BĐQ đi sâu gần bìa rừng trái trục lộ.

     Có lúc hỏa châu soi khi ngừng quân, Tư Lệnh quan sát bên đường một lúc rồi hỏi tôi,

     – Quân của Long đâu sao qua không thấy?

      Tôi phải giải thích với ông rằng đơn vị tôi đã được tập luyện thành thói quen, bất cứ lúc nào dừng quân, mỗi người lính tự động núp vào bụi cây, gò đất, nếu không có gì ẩn nấp, họ phải ngồi thủ thế, súng trên tay sẵn sàng tác xạ. Hỏa châu không đủ soi sáng đội hình, nên Tư Lệnh không thấy rõ họ.

     Nghe tôi giải thích có lý, Tướng gật đầu,

     – Well well, very good! 

     Tới một cái cầu nơi con suối sâu, nước chảy ào ào, đoàn quân qua cầu hàng dọc, rồi chuyển sang hàng ngang tiến sâu về hướng bìa rừng, khi an ninh đã sẵn sàng, tôi mới mời Tư Lệnh và Đại Tá Hiếu rời vị trí ẩn nấp tiếp tục lên đường.  

      Chúng tôi đến giữa cầu thì nghe từ đầu dốc phía sau, tiếng chuông xe đạp, “kính coong! kính coong!”

     Rồi một người đàn bà la lớn,“Ê các cha! Xe tui không có thắng, tránh xa! Tránh xa! ”

     Thế là tụi tôi và Tư Lệnh đứng nép một bên cầu, cầu không có lan can, chỉ sợ người đi xe đạp lao vào mình thì chắc mình sẽ rớt xuống sông trình diện Hà-Bá!

     Khi người đi xe lướt qua trước mặt, nhờ ánh hỏa châu soi, chúng tôi thấy rõ mặt người vừa la, một bà trung niên rất béo, cưỡi chiếc xe đàn ông loại để thồ đang vèo vèo lao xuống dốc.

     Chợt chiếc xe vướng cục đá, tưng lên, trệch hướng, và lao xuống dòng nước trắng xóa đang réo ầm ầm dưới kia. Chúng tôi nghe tiếng thét của người đàn bà ấy ngân dài trong thung lũng,

     “Á !…Á !…Á !…”

      rồi thì…

     “Ùm!”

     Sau dư âm của tiếng “Ùm!” cảnh vật lại trở về bình yên. Tôi rọi đèn xuống để quan sát tình trạng người bị nạn thì chỉ thấy một khối đen trôi theo dòng nước cuốn nhanh.

      Đoàn quân vẫn tiếp tục hành trình. Tư Lệnh vừa đi vừa đàm thoại với những cánh quân ở xa. Vì cùng tần số, tôi biết Trung Tá Trần Minh Công Trung Đoàn 48/SĐ 18 BB, Đại Tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn 52/SĐ 18 BB đang ở nơi nào.

     Khi đến gần ngã ba Xà-Bang thì cánh quân của tôi đã bỏ đơn vị theo sau một đoạn hơi xa. Trong bìa rừng sâu tôi nghe tiếng súng báo động của địch. Những tiếng “Tắc!Tắc!…Tắc!…”  hai ngắn, một dài, từ hướng Xuân-Lộc tiến dần từng chặng về hướng Nam . Rõ ràng địch đang âm mưu gì đây!

     Đại Tá Hiếu thì cứ luôn bận tâm đến đứa con đi đoạn hậu, TĐ 2/43, đơn vị này bắt đầu rời núi Thị. Tôi rất khâm phục cái trầm tĩnh và sức chịu đựng của người sĩ quan đàn anh này. Chân ông còn tháp một mảnh platinum vì chiến thương, vậy mà ông cố theo bén gót những người lính miền núi mà không để hé chút dấu hiệu mệt nhọc nào, quả là một sự cố gắng phi thường.

     Sắp đến ngã ba Xà-Bang, tôi thấy một cái xe Citroẽn dân sự bị bắn xẹp bánh, nằm giữa đường. Khi tôi rọi đèn pin vào trong xe thì thấy hai ghế trước bỏ trống, trên ghế sau là xác một bà cụ già. Trên tay bà cụ còn ôm một cái cơi trầu. Cái cơi trầu bung nắp, những lá trầu đẫm máu nằm rải rác trên nệm xe. Tư Lệnh xúc động bùi ngùi nhìn cái xác người dân nằm đó, người dân bỏ cuộc giữa đường dẫn tới chốn bình an. Buồn rầu đóng cửa chiếc xe Citroẽn lại, tôi nhủ thầm,“Lỗi tại chúng tôi! Lỗi tại chúng tôi!”

     Rồi tôi lâm râm đôi lời cầu nguyện cho người nạn nhân chiến cuộc.

     Đến ngã ba Xà-Bang thì Tướng Tư Lệnh mệt lắm rồi, ông đề nghị,

     – Long ơi! Có nên cho anh em nghỉ một chút được không?

     – Địch nó đã phát giác ra cuộc rút quân của chúng ta rồi, chắc chắn có bôn tập truy kích. Vị trí này rất nguy hiểm không dừng quân được đâu Thiếu Tướng. Nhất là ban đêm, đang đi mà ngừng lại nằm xuống là bị ngủ mê ngay, rất khó dậy nổi mà đi tiếp. Gắng vài giờ nữa là tới chỗ an toàn. Cố lên đi Thiếu Tướng!

      Tôi vừa từ chối, vừa kéo tay Tư Lệnh tiến lên. Tôi huýt gió bài “The Longest Day” Tư Lệnh huýt gió theo, và chúng tôi tiếp tục bước đi. Hướng Xuân-Lộc vẫn ì ầm tiếng đại bác. Hỏa châu lập lòe phía chân trời xa.

     Vừa lúc ấy trên máy liên lạc của Trung Đoàn 43 BB, Thiếu Tá Dư, TĐT 3/43 BB báo cáo rằng đoàn cơ giới của anh và Trung Tá Nô Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh đã gặp quân Dù án ngữ ngõ vào Bình-Ba, họ đang chờ xác nhận của cấp trên rồi mới cho phép quân Xuân-Lộc tiến vào. Tướng Tư Lệnh thở phào nhẹ nhõm, thế là chuyện “link-up” với quân bạn đã xong, bây giờ chỉ còn chuyện theo dõi an nguy của đoàn hậu quân là Tiểu-Khu Long-Khánh, Lữ Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn 2/43 BB.

    Chúng tôi dấn bước tiến nhanh về phía trước, xa xa vọng lại tiếng gà gáy sớm. Khi chúng tôi nhìn thấy ánh đèn dầu của xóm thôn le lói, cũng là lúc máy truyền tin của Tiểu- Khu Long-Khánh báo tin cho Tư Lệnh rõ rằng họ đang chạm địch. Rồi đến tin tức Lữ Đoàn Dù chạm địch. Những khẩu pháo Dù đặt bên đường đầu xóm bắt đầu tác xạ từng tràng yểm trợ cho quân bạn.

     Mặt trời hừng đông, một chiếc xe Jeep chạy đến đón Tướng Tư Lệnh và tùy tùng của ông. Chiếc xe thứ hai đến đón Đại Tá Hiếu, Trung Tá Linh và anh lính truyền tin Trung Đoàn 43 BB.

     Tôi cho đơn vị đi sâu vào hướng làng xã rồi dừng quân dưới một bụi tre làng. Tôi cho các đại đội bố quân, cắt người canh gác. Đầu dựa ba lô, mắt tôi nhíp lại rất nhanh.

     Mặt trời lên cao khỏi ngọn cây, tôi thức dậy bởi tiếng động cơ của một cái trực thăng chỉ huy đáp bên căn cứ hỏa lực của Dù. Ba người cao lớn nhảy xuống, chiếc tàu bay đi.

     Không rõ những người vừa xuống máy bay là ai, chỉ thấy sau khi trao đổi vài lời gì đó với những pháo thủ Dù, họ quay sang tiến về phía TĐ 82 BĐQ.

     Khi họ đến gần thì tôi nhận ra Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Úy Đức tùy viên của ông, và một anh lính mang máy truyền tin. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn tập họp năm đại đội dàn chào.

     Sau khi bắt tay tôi, Tướng Toàn đi một vòng, bắt tay từng người lính đứng trong hàng. Ông chỉ vắn tắt, lặp đi, lặp lại, có một câu,

     “Good! Giỏi! Tiểu đoàn ni giỏi lắm!”

     Rồi ông quay qua tôi nhỏ giọng,

     -Thôi cho anh em giải tán đi Long, ở đây sát nách căn cứ Mây-Tào, tụi nó pháo bất cứ lúc nào, nguy hiểm.

     Tôi cười,

     – Pleime tứ bề là địch, vậy mà Trung Tướng xuống thăm, tụi tôi vẫn đội hình đàng hoàng dàn chào; còn ở đây thì có cái gì đáng ngán mà bỏ lễ nghi quân cách?

     Tướng Toàn cũng cười theo,

     – Ừ, nhắc Pleime tức là chú mi nhắc khéo ta còn nợ cái lon trung tá của chú mi trận đó có phải không? Thôi về Long-Bình kỳ này ta đền cho! Chịu chưa?

      Rồi Trung Tướng Toàn bắt tay tôi từ giã, có xe chờ đưa ông vào Hội Đồng Xã Bình-Ba họp với Tướng Đảo.

     Tướng Toàn không lạ gì chúng tôi, chúng tôi cũng chẳng lạ gì Tướng Toàn. Trong thời gian Tướng Nguyễn Văn Toàn giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, ông thường ghé thăm Pleime và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. Tướng Toàn đã chứng kiến khả năng đơn vị này qua những trận đánh lẫy lừng, Căn Cứ 711, Pleime, Đạo Trung.

     Trong năm 1974 Tướng Toàn đã hai lần gắn Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu lên hiệu kỳ tiểu đoàn này. Sau đó ông thuyên chuyển về làm Tư Lệnh Quân Khu 3.

     Tháng 4/ 1975 Quân đoàn II tan rã. Khi được tin báo rằng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân còn đang lặn lội trong rừng già Bảo-Lộc, chính Tướng Nguyễn Văn Toàn đã ra lệnh cho Không Quân Vùng 3 Chiến Thuật cứu tiểu đoàn này về Long-Khánh chiều ngày 6/4/1975.

     Chiều hôm đó, tại sân bay Long-Khánh, Tướng cũng chỉ ngắn gọn một câu,

     “Good! Giỏi! Tiểu đoàn ni giỏi lắm!”

     Chúng tôi đã đáp lại lời khen của ông bằng những chiếc T 54 cháy bên rào Trại 181 PB, và bằng những khẩu phòng không nước thép còn xanh biếc được trưng bày ở sân bay Long-Khánh.

     Trưa hôm đó tôi vào gặp Chuẩn Tướng Đảo trong Hội Đồng Xã Bình-Ba, ông cho biết Lữ Đoàn 1 Dù đã thành công diệt xong những con chốt chặn và đang trên đường tập trung vùng bắc xã Bình-Ba.

     Riêng tin tức liên quan đến Tiểu Khu Long-Khánh thì còn mù mờ. Trung Tá Đình (K10 VB) Tiểu Khu Phó đã tử trận vì một quả B 40 trúng ngay xe ông. Số phận Đại Tá Phúc, Tỉnh Trưởng thì chưa rõ rệt, còn đang phối kiểm.

     Tôi mượn xe và tài xế của Chuẩn Tướng Đảo để ra Bà-Rịa, vào trung tâm tiếp cư, dò tên gia đình vợ con tôi trên danh sách nạn nhân chiến cuộc, nhưng không thấy tin tức gì của Ban-Mê-Thuột cả.

     Khi tôi về lại Hội Đồng Xã Bình-Ba thì Đại Tá Hiếu cho tôi biết địch đã bôn tập truy kích đúng như dự đoán của tôi. Chúng chặn đánh quân bạn ngay tại ngã ba Xà-Bang, Trung Tá Đình chết ở đây, Đại Tá Phúc cũng bị địch bắt ở địa điểm này. TĐ 2/43 BB của Th/Tá Chế thì đang bị xe tank CSBV truy lùng, phải lẩn trốn trong rừng cao su để tìm đường rút về hướng Long-Thành.

     Ngày hôm đó Tổng Thống Thiệu từ chức trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương. Tiểu đoàn tôi rút vào nhà dân ngủ qua đêm.

     Sáng hôm sau chúng tôi rút về Long-Bình, đơn vị tôi xuất phái từ Sư Đoàn 18 và được trả về cho Biệt Động Quân. Từ ngày về Long-Bình tôi mải lo đi tìm tin tức vợ con, không màng tới việc gặp Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III để “đòi nợ” cái lon trung tá.

     Ngày 28/4/1975 Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân được lệnh vào vùng hành quân phía sau lưng Trường Bộ Binh Long-Thành. Vì lệnh đến bất ngờ do đó 1/3 quân số đơn vị xuất trại về không kịp giờ di chuyển nên tiểu đoàn vào vùng với quân số 161 người, thiếu vắng Thiếu Úy Đặng Thành Học, người sĩ quan đại đội trưởng ưu tú nhất của tôi.

     Tiểu đoàn có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ hướng bắc tiến về, đồng thời hỗ trợ cho một đơn vị bạn (?) tái chiếm trường Bộ Binh Long-Thành. Ngọn đồi chúng tôi phòng thủ là một cái tiền đồn cũ, có ba cái lô cốt nhỏ, không hầm hố địa đạo, không có hàng rào. Chúng tôi chỉ chất sơ sài những viên đá tổ ong thành một chiến lũy cấp thời.

     Tối hôm đó, từng đoàn xe vận tải của CSBV đã đổ hàng trăm bộ đội xuống khu rừng hướng bắc ngọn đồi trọc mà chúng tôi trấn giữ. Khoảng tám giờ tối, đoàn xe bật đèn rọi đường cho bộ binh theo sau T 54, dàn hàng ngang xung phong biển người vào tuyến phòng ngự của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.

     Ngay loạt đạn 100 ly mở màn, ba cái lô cốt đã bị bắn sập. Đại Úy Hoàn và anh lính truyền tin của ông là những người chết đầu tiên. Tôi bò sang hố của ông, quấn tấm thân đầy máu của ông bằng tấm mền poncho line.

     Khi tôi di chuyển sang kiểm soát vị trí phòng ngự của Thiếu Úy Thủy, ĐĐT/ ĐĐ 4 thì bộ binh địch bắt đầu hô “Xung phong! ” Chúng tôi phải dùng lựu đạn M 26 để chặn bước tiến của giặc. Những trái M 72 bắn xéo qua xéo lại từ đỉnh đồi đã khiến cho chiến xa CSBV thoái lui. Dọc theo sườn đồi có bốn, năm chiếc T 54 bị hạ nằm bất động. Hai khẩu M 60 bắn chéo cánh sẻ đã vô hiệu hoá đợt sóng biển người đầu tiên của địch.

     Tôi gọi cho Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xin không yểm và pháo yểm nhưng đơn xin yểm trợ không có ai trả lời!

    Chợt đèn xe vụt tắt, tiếng động cơ chiến xa rú lên. Khoảng năm sáu chiếc T 54 tắt đèn và mở hết tốc lực chạy lên đồi. Chúng đảo một vòng chữ “C” trên vị trí đóng quân của Biệt Động Quân, xích xe đè nát thân thể những người không kịp tránh né rồi chạy đi. Sự kiện này thật là bất ngờ!

     Chúng tôi chưa kịp phản ứng thì chiến xa địch đã chạy khuất xuống chân đồi. Ông Thượng Sĩ Phạm Hoa, thường vụ tiểu đoàn bị xích xe tank nghiến nát ngực chết cùng với anh B1 Bích, người nấu cơm cho tôi. Khẩu cối 81 bị đè gãy càng bất khiển dụng. Chuẩn Úy Thiều, trung đội trưởng trung đội súng nặng ngồi ôm xác thượng sĩ Hoa khóc rưng rức. Cả tiểu đoàn đều biết Chuẩn Úy Thiều là ứng cử viên rể quý của “Thượng Sĩ Tía”. Ái nữ của thượng sĩ thường vụ đang là hoa khôi lớp 11 trường Trung Học Minh-Đức Pleiku.

     Tôi chưa kịp chấn chỉnh lại đội hình thì đạn 100 ly lại ầm ầm dội trên đỉnh đồi, rồi đèn xe lại bật sáng soi đường bộ binh địch mở đợt biển người tiếp theo. Lần này chúng tôi ngăn chúng từ xa bằng những quả lựu đạn M 67 nổ chậm. Chúng tôi ném hết sức thẳng tay những quả M 67 xuống chân đồi. Đèn xe soi rõ những thân hình cán binh Cộng-Sản loạng choạng ngã chúi xuống đất vì trúng mảnh lựu đạn. Hai khẩu M 60 vẫn đan cánh sẻ. Những xác người chết đè lên nhau, những tiếng thét đau đớn vang lên man rợ trong đêm đen.

     Đèn xe lại tắt, tiếng chiến xa lại hú. Những nòng M 72 đã sẵn sàng phóng đạn. Hai khẩu M 60 được nâng cao lên nhằm vào những xạ thủ phòng không trên tank. Vài chiếc tank bị trúng đạn, nằm lại giữa triền đồi, nhưng có hai chiếc đã lọt được vào vị trí phòng ngự của Biệt Động Quân. Xạ thủ 12,8 ly trên xe đã chết, cái dây xích còn móc vào chân xạ thủ, treo tòn ten cái xác xạ thủ đung đưa bên hông chiến xa.

     Trong khi chiếc tank hướng đông đã xoay sang trái chạy xuống đồi thì chiếc thứ nhì còn đang trở đầu ở khoảng đất giữa hai cái lô cốt. Có một Biệt Động Quân đứng xổng lưng giữa đồi chờ đợi cái xe tank đó. Chiếc xe nhằm anh lao tới, anh tránh sang một bên, rồi nắm sợi xích treo cái xác bên hông xe đu lên pháo tháp. Một quả lựu đạn ném gọn vào lòng xe, quả thứ hai, quả thứ ba… bùng! bùng ! bùng! chiếc xe loạng choạng rồi ngừng trên đỉnh đồi.

     Người Biệt Động Quân nhảy xuống xe, anh xả một băng M 16 vào cái thây ma cán binh Cộng-Sản, xạ thủ phòng không. Hết đạn, anh thay băng đạn khác, nhả đạn tiếp tục, cái thây ma toe tua từng mảnh. Rồi anh ngồi bệt xuống đất ôm mặt khóc rống lên. Người ấy là Chuẩn Úy Thiều!

     Tôi cứ để cho người sĩ quan trẻ khóc, khóc cho vơi hận thù, cho vơi nỗi thương tâm.

     Khoảng nửa đêm, đèn xe lại rọi sáng, đạn 100 ly lại cày xới ngọn đồi không tên. Tôi không thể nắm vững được con số tổn thất của quân bạn là bao nhiêu. Chúng tôi đã xử dụng đến những ống M 72 cuối cùng. Tôi gọi Thiếu Úy Thủy và cho lệnh anh đi gom góp lựu đạn của những người đã tử trận về chia cho những người còn sống để đánh địch lần chót.

     Dưới ánh đèn xe, những người lính xâm lăng trong đợt xung phong này hình như không còn hăng hái như hai đợt trước; họ bắt đầu bò lên, nương theo những mô đá nhấp nhô. Như vậy là địch đã mất tinh thần! Khi những quả lựu đạn vừa bật mỏ vịt nổ “Ùm!” thì những anh bộ đội Cộng-Sản cũng quay lưng chạy thục mạng ngược về hướng rừng.

     Thế là đèn pha vụt tắt. Dưới chân đồi có tiếng rên la của lính CSBV bị thương. Hai khẩu M 60 tưới đạn không thương tiếc về hướng có những tiếng rên la đau đớn ấy.

     Chừng mười phút sau đoàn xe tank lại ào ạt tiến lên đồi lần thứ ba. Lần này chúng theo đội hình hai hàng dọc, đâm thẳng lên đỉnh đồi rồi đồng loạt pha đèn, chia hai ngả, trái, phải giày xéo vị trí trú quân của chúng tôi. Trên thành xe không có tên xạ thủ phòng không nào! Những đứa nạp đạn đại bác thì thò đầu lên thụp đầu xuống ném những trái thủ pháo xuống những cái lều poncho và những hố cá nhân.

     Chúng tôi giờ này như những con thú bị thương, miệng la, “A !…A!… A!… Biệt Động!…Sát!”  tay bóp cò M 16 nhắm những cái đầu địch nhấp nhô trên pháo tháp.

     Một trái thủ pháo ném trúng lưng tôi, tôi chụp nó ném đi hướng khác, trái thủ pháo nổ trên trời, thủ pháo Cộng-Sản nổ chậm hơn lựu đạn M 26 của ta, sát thương cũng không bằng M 26 của ta.

     Bây giờ chúng tôi đã mất trí, không còn biết sợ chết nữa! Chúng tôi trở thành những tay giác đấu, gắng sức leo lên lưng những con quái vật T 54 để đánh quả lựu đạn sau cùng.

     Tôi đã leo lên đến cái pháo tháp, tôi lần tay tìm trên sợi dây ba chạc, còn một quả mini và một quả lân tinh! Tay tôi chưa kịp mở chốt quả mini thì một cái đầu địch nhô lên, nó đập một trái thủ pháo trên mũ sắt của tôi rồi ra sức xô tôi xuống xe. Hai con vật giằng co, quả mini tụt tay tôi rơi mất! Tôi gỡ cái nón sắt ra, thẳng tay choảng vào đầu thằng giặc, đầu nó ngúc ngoắc, rồi nó thụp vào lòng xe. Tôi đang cố gỡ trái lân tinh móc trên dây ba chạc thì cái pháo tháp xoay tròn, tôi bị gạt rơi xuống xe. Tôi lăn sang sau một ụ đá, chiếc xe đảo một vòng, xích sắt cày sâu trên đất, cát bụi tưới rát mặt, tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc !

     Chúng tôi giờ này như những con cọp bị thương, bị dồn vào đường cùng! Chúng tôi chạy bộ đuổi theo đoàn chiến xa đang rút đi. Trong đám bụi mù, một Biệt Động Quân đã bỏ được một trái M 26 vào trong lòng chiếc T 54 hướng ĐĐ 4/TĐ 82 khiến nó quýnh quáng đâm vào hông một chiếc khác rồi lật nhào xuống triền đồi bốc cháy. Chiếc xe bị đâm trúng thì đứt xích, từ trên xe, bốn tên CSBV nhảy xuống, chúng chưa đứng vững thì năm sáu họng M 16 đã nhả hàng trăm viên đạn trên người chúng, bọn xâm lăng chết không kịp than tiếng nào.

    Có vài Biệt Động Quân còn bám trên pháo tháp những chiếc tank đang đổ dốc, họ cố chúi mũi M 16 vào miệng pháo tháp bóp cò vô vọng. Pháo tháp xoay tròn, họ rơi xuống đất. Chiếc xe chạy sau đè lên thân họ. Đoàn xe biến dạng trong đêm.

     Đêm ấy tôi đã sống sót sau một trận chiến đấu đẫm máu và dã man nhất trong cuộc đời mười năm trận mạc. Cái lều của tôi bẹp dí. Chiếc máy PRC 25 của tôi cũng bẹp dí. Chiến xa địch đã rút xa, tôi còn đứng sững trên đỉnh đồi nhìn theo chúng. Tay tôi còn cầm chắc quả lựu đạn lân tinh cuối cùng, tiếc rẻ.

     Tôi bước rảo quanh ngọn đồi trọc đã xác xơ. Thuộc cấp của tôi chết phơi thây trên miệng hố, la liệt đó đây. Không còn khẩu M 72 nào, lựu đạn cũng cạn, pháo yểm không có, không yểm cũng không có. Tôi quyết định cho đơn vị rút lui.

     Một trái mìn cóc nổ dưới chân Chuẩn Úy Trung, người sĩ quan trẻ theo sau lưng tôi đi kiểm tra trận chiến, bàn chân trái của Trung toe ra như miếng bã trầu đẫm máu. Tôi dìu Trung vào cái lều sập của Đại Úy Hoàn, cái xác Đại Úy Tiểu Đoàn Phó đã bị pháo 100 ly xẻ thành từng mảnh, đầu văng một nơi, tay chân văng một ngả. Tôi chụp cái máy PRC 25 của ông ra lệnh cho Trung Úy Trần Văn Phước ĐĐT/ĐĐ 3 cho người dìu Chuẩn Úy Trung xuống đồi. Rồi tuần tự, các Đại Đội 3,4,2,1 rút lui qua con suối dưới chân đồi.

     Trên đồi, những anh hùng Pleime vừa tử trận, nằm phơi thân trên miệng hố cá nhân. Không có tiếng rên la nào cả, tất cả đã ra đi êm ả, tất cả đã ra đi kiêu hùng. Đêm 28/4/1975 máu chúng tôi, máu những người Biệt Động còn tưới ướt đẫm một ngọn đồi không tên của quê hương.

     Khi chúng tôi xuống tới vườn cam dưới chân đồi thì xe tank địch ào ạt lên đồi lần thứ tư. Những trái đạn 100 ly bắn dài, vượt qua đỉnh đồi, bay trên đầu chúng tôi rồi rơi bên bờ suối. Đất đá bụi mù sau lưng chúng tôi. Trong đêm tối, tôi cho quân lội nhanh qua bờ bên kia.

      Đêm 28/4/1975, chợ chiều rồi! Không ai đáp ứng lời xin tác xạ yểm trợ. Không ai đáp ứng lời tôi xin một trái hỏa châu! Qua suối, tôi cho đơn vị dấu đội hình trong bãi mía. Từ đây, sáng hôm sau tôi nhìn lại bên kia bờ, ngọn đồi trọc đẫm máu không một bóng người, những chiếc xe tank bị phá hủy đêm qua đã được kéo đi. Không thấy bóng dáng quân thù, không nghe tiếng động cơ chiến xa. Ngọn đồi nằm phơi dưới nắng mai im ắng. Vào lúc này, bên trái cái lô cốt hướng bắc, cạnh một gốc bằng lăng, Đại Úy Hoàn TĐP/TĐ 82 BĐQ thoải mái nằm ngủ yên trên đó, đầu một nơi, thân một ngả. Có cả chục người lính can trường yên nghỉ trên ngọn đồi này cùng ông. Gió ngàn lồng lộng, hoa mía bay lồng lộng…

     Sáng 29/4/1975 tôi nhìn về hướng căn cứ Long-Bình, có vài cột khói đen bốc lên từ nóc các nhà vòm. Người ta lại đốt gia tài, người ta lại rút đi rồi ! Người ta rút đi đâu? Tôi vẫn còn ở sát địch quân, vậy mà người ta lại nỡ bỏ tôi mà đi, như ở Quảng-Đức, Blao! Kiểm điểm lại quân số, cả tiểu đoàn còn được 107 người!

     Tôi lấy cái PRC 25 rà những tần số quen. Tôi bắt được giọng nói của Hằng Minh và Đại Tá Hiếu, Sư Đoàn 18 đang lún càng tại Trảng-Bom ! Khi biết điểm đứng của tôi, Đại Tá Hiếu hẹn gặp nhau tại cổng số 10 Căn Cứ Long-Bình.

     Muốn đi về Long-Bình tôi phải tạt qua ngã Hố-Nai. Pháo hai bên Quốc Cộng đều tập trung trên vùng này.

     Vậy là, đội pháo ta đi! Chúng tôi đi như những cái thân robot, đạn nổ đằng trước, đạn nổ đàng sau, đạn nổ bên hông, đạn nổ chụp trên đầu. Chúng tôi không nghe gì cả, cứ thế mà đi, hướng Long-Bình, Okay! Tiến lên!

     Nơi ô cửa sổ hai bên đường, có những họng súng AK chĩa vào đoàn quân đang di chuyển; chúng tôi không màng tới chúng; chúng tôi cứ đi trong mưa pháo; pháo bạn từ hướng tây dội tới; pháo địch từ hướng đông câu sang. Pháo cứ rơi; những người trúng đạn ngã xuống; những người chưa trúng đạn cứ bước đi; những bước đi không hồn; đường phố đầy hố đạn, đường phố đầy xác người…

      Tôi vào tới vòng rào Căn Cứ Long-Bình vào lúc buổi chiều. Tôi là dân Vùng 2 không biết cái căn cứ này có bao nhiêu cổng, đi tìm cái cổng số 10 thì biết nó ở đâu? Tôi thấy một doanh trại có cái bảng Bộ Chỉ Huy/ Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân bỏ trống, vậy là thày trò tôi nhào vào đấy hạ trại. Đếm đầu thuộc cấp trong sân, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân giờ ấy còn 67 người! Như thế là chẵn 40 người chết rải rác trên đoạn đường mưa pháo từ Hố-Nai về tới Long-Bình!

     Cơm nước xong thì trời đã tối. Chúng tôi ngủ như chết. Đến ba giờ sáng 30/4/ 1975 Trung Úy Trâm, Sĩ Quan Truyền Tin Tiểu Đoàn dựng tôi dậy,

     – Có tin từ liên đoàn ra lệnh cho chúng ta rút về Sài-Gòn!

     Tôi uể oải ngồi dậy,

      – Mẹ kiếp! Về Sài-Gòn! Về Sài-Gòn làm cái con mẹ gì đây!

     Xa cuối trời, hỏa châu le lói hướng Sài-Gòn.

     Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn (!) chuẩn bị lên đường.

     Tới ngã ba Tam-Hiệp chúng tôi gặp một bộ phận của Sư Đoàn 22 Bộ Binh, cùng là dân Vùng 2 mất đất, thấy thương nhau, tay dơ vẫy vẫy…

     Cầu xa lộ đã bị xe tank CSBV chận đường, chúng tôi rẽ vào thành phố Biên-Hòa.

     Thành phố vắng lạnh buồn thiu. Tôi cho đơn vị đi dọc theo đường xe lửa, ngang qua những căn nhà tôle ổ chuột, một vài khuôn mặt buôn phấn bán hương thò ra, ánh đèn vàng hiu hắt, đôi câu vọng cổ vang theo sau lưng người chiến bại,

      “Anh ơi! Bỏ gươm đao, bỏ mộng khanh tướng công hầu mà về với em đi! Chiến cuộc đã tàn rồi! Anh ơi! Anh ơi! ”

     Chúng tôi cúi đầu lầm lũi mà đi. Chúng tôi đi qua cầu Đôi rồi đến cầu Hang, tôi cho đơn vị dừng lại tấp vào những cái quán bỏ trống bên đường. Từng đoàn quân xa, chiến xa có Biệt Động Quân và lính Dù tùng thiết đi qua mặt chúng tôi, hướng về Sài-Gòn. Khoảng 8 giờ sáng thì không còn chiếc xe nào đi qua đó nữa. Lúc này trong ngôi chùa bên kia đường tàu, những nhà sư áo vàng đang chất đồ đạc lên xe, xe hướng về Sài-Gòn. Ít lâu sau xe của họ lại quay trở lại chùa không hiểu vì lý do gì.

     Tôi cho quân tiếp tục lên đường. Khi còn cách Thủ-Đức chừng vài cây số người lính có radio loan tin Tổng Thống Dương Văn Minh đang kêu gọi đầu hàng! Tôi cho quân dừng lại, tạt vào một quán cà phê bên đường. Bà chủ quán thấy tôi, ái ngại vặn nhỏ volume cái máy thu thanh.

      “Hết rồi! Chị cứ mở lớn cho tôi nghe với! Hết rồi! Chị ơi!”

     Bà chủ quán mở radio lớn hơn, và tôi nghe rõ từng lời kêu gọi của ông Tổng Thống, ông tân Tổng Thống nước Việt-Nam Cộng-Hòa mà tôi không rõ ông ta đã lên ngôi lúc nào!

     Ngoài cổng có cái xe Jeep từ hướng Sài-Gòn chạy lên, một người trông dáng như Tư Lệnh bước xuống hỏi anh Biệt Động Quân trước ngõ điều gì đó, rồi chiếc xe trở đầu phóng đi. Khi tôi ra ngoài đường thì người lính nói có Thiếu Tướng Đảo hỏi tin Thiếu Tá, vì anh ta mới từ phía sau đoàn quân di chuyển lên đây, nên anh không rõ tôi ngồi trong quán nước, anh nói với Thiếu Tướng rằng anh không biết ông tiểu đoàn trưởng ở chỗ nào cả, xin Thiếu Tướng chờ một lát để anh ta đi kiếm, nhưng Thiếu Tướng Đảo đã vội vã ra đi.

     Ngày 10 tháng 5 năm 1975, tôi đang ngồi uống cà phê trước cửa nhà ông chiêm tinh gia Trần Cẩm số 144 đường Nhật-Tảo, Chợ-Lớn thì bên kia đường một người tóc húi cao, vừa xuống yên chiếc xe đạp thể thao.

     Tôi gọi,

      – Tư Lệnh! Tư Lệnh!

     Tướng Đảo ngơ ngác một lúc rồi nhận ra tôi, ông bước sang nhập bàn với tôi và chú Trung Úy Phước, con trai bác Cẩm.

     Tư Lệnh nói hôm 30 tháng Tư ông có quay lại tìm tôi ở cái quán cà phê bên đường để rủ tôi đem quân trốn về Vùng 4, nhưng không thấy tôi, nên dự định không thành.

     Tôi nhìn vào mắt Tư Lệnh, an ủi ông,

     – Số mệnh mà Tư Lệnh ơi!

     Chúng tôi xiết tay nhau cảm thông. Vinh quang đành bỏ lại sau lưng, đau lòng mà bỏ lại sau lưng! Trước mặt chúng tôi, những ngày sầu thảm bắt đầu…

     Tháng Ba năm 1979 tôi được đưa từ Trại Cải Tạo Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên về Trại Nam-Hà A, Phủ-Lý. Tôi là thành phần của toán bốn mươi người có tiền tích trốn trại, nên bị giải về đây với cái còng trên tay.

     Khi chúng tôi nhập trại, những người tù trẻ tuổi can tội Vượt Biên và Phục-Quốc chào đón chúng tôi, những kẻ mang còng, bằng những đợt vỗ tay hoan hô tưng bừng.

     Hôm sau có người nhắn với tôi rằng Chủ Nhật tới Thiếu Tướng Đảo chờ mời tôi ăn cơm ở buồng số 1.

     Trưa Chủ Nhật đó tôi tới buồng 1 gặp người chỉ huy cũ, ông ở đội lao động cùng Tướng Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 KQ, Đại Tá Phúc Tỉnh Trưởng Long-Khánh, và Đại Tá Khoái CHT/BĐQ/QK1.

     Thời gian qua đã mấy năm không gặp, tôi rất vui khi bắt tay Tư Lệnh.

     Bữa cơm ấy có tôi, Tư Lệnh, Tướng Sang và một người quen của Tướng Sang.

     Tư Lệnh cầm tay tôi, giọng nói đầy hưng phấn,

     – Những bạn trẻ như em đã làm qua tỉnh ngộ, xét lại mình. Từ nay qua sẽ sống xứng đáng hơn!

     Tôi chẳng hiểu ý Tư Lệnh muốn gì, nhưng tôi tin chắc có điều lạ đang chuyển biến trong tâm tư Tư Lệnh (?)

     Những buổi chiều sau đó, mỗi khi đi lao động về, chúng tôi đều tụ tập bên bờ giếng trước buồng 7 để nghe Thiếu Tướng Đảo, Đại Tá Trí, Đại Tá Quy, và Đại Tá Minh hòa nhạc. Họ là những nhạc sĩ siêu quần, tiếng đàn của họ có thể ví với tiếng đàn của một siêu “Band”, nhất là cây măng đô lin của Đại Tá Minh.

     Chuyện tụ tập đàn ca đến tai ban chỉ huy trại. Thằng “chèo” Lực xuống yêu cầu ban nhạc và khán giả giải tán. (Ở trại Nam-Hà A chúng tôi gọi những tên công an coi tù là “chèo”, hay “phường chèo”).

     Những người trẻ tuổi hô to,

     – Đả đảo “chèo” Lực!

     Lời qua tiếng lại, lũ “chèo” ùn ùn kéo xuống vây quanh đám đông.

     Tướng Đảo lớn tiếng,

     – Anh không đủ tư cách nói chuyện với tôi! Anh về gọi Trung Tá Xuyên, trại trưởng xuống đây nói chuyện với tôi!  

     Trung Tá Xuyên không xuống, mà đoàn vệ binh thì càng lúc càng đông hơn. Chúng lùa tù về buồng, khóa cửa lại, khóa cả cửa ra sân lớn, không cho các buồng giao thiệp với nhau.

     Sáng hôm sau một cái xe Molotova bít bùng đến trại Nam-Hà A đem Tướng Đảo và vài ông tướng khác đi mất biệt.

     Sau khi chia tay nhau ngày ấy ở Trại Cải Tạo Nam-Hà A, tôi và Tư Lệnh chưa có dịp gặp lại nhau.

     Tam nhân đồng hành trên Liên Tỉnh Lộ Long-Khánh, Bà- Rịa tháng Tư năm xưa thì có hai người bị giữ trong trại tù 13 năm là tôi và Đại Tá Hiếu, người thứ ba là Thiếu Tướng Đảo thì bị nhốt lâu hơn. Ông và ba vị tướng nữa của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa là những người sau cùng của chế độ được tha khỏi gông cùm 17 năm sau khi Miền Nam sụp đổ.

     Bây giờ là tháng Tư! Ba mươi năm đã trôi qua. Bao nhiêu lần kỷ niệm xưa hiện về. Tháng Tư nào cũng chở đầy nỗi buồn!

     “Hằng Minh đây Tiên Giao gọi! Tháng Tư lại về rồi Hằng Minh ơi!”

 

Vương Mộng Long

Seattle, ngày 7 tháng Tư năm 2005

*Bài đã in trên Đa Hiệu số 74

CUỐI ĐƯỜNG (Hồi ký của VƯƠNG MỘNG LONG – k20)

CUỐI ĐƯỜNG

(Hồi ký của Vương Mộng Long- k20) 

“Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ.  

Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của mình!”

(Vương Mộng Long)

—o—

     Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của Quốc Lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, Quốc Lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên Đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư Đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu,

     –“Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!”

     Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để “phòng thủ thủ đô”. Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên Quốc Lộ 1, cách Cầu Hang  chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào giờ này, quân số Tiểu Đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân Khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu Tá Vương Mộng Long), Thiếu Úy Thủy, Trung Úy Trâm, Chuẩn Úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại Úy Ngũ Văn Hoàn, Tiểu Đoàn Phó chết đêm 28 tháng Tư.  Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Phước và Trung Úy Đăng mất tích. Thiếu Úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu Úy Học, Thiếu Úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn Úy Gấm, Chuẩn Úy Trung, Chuẩn Úy Lê Văn Phước (Ban 3) cùng Trung Úy Trần Văn Phước thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua. 

     Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi. Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên-Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân.  Trước mắt chúng tôi là Quốc Lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới. 

     Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương Văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương Văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là “những người anh em” Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi,

     –“Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?” 

     -“Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?”  

Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt,

     –“Thiếu Tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu Tá ơi! Hu…hu …hu…” 

     Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van…

     Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương Văn Minh lên chức tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng Thống Việt- Nam Cộng -Hòa được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm tổng thống dễ dàng thế nhỉ?  Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quyệt nước mắt.

     Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!…thùng… thùng… nghe lớn dần… lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền-Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,

     –“Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!”

     – “Hoan hô!…Hoan hô!” 

     Thùng!… Thùng!… Hoan hô!…Hoan hô!… Thùng!… Thùng!… Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió; lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.

     –“Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?”

     Chửi thề xong, ông Hạ Sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.

     –“Thôi! Ta đi!” Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.

     -“Mình đi đâu bây giờ, Thiếu Tá?” Thiếu Úy Thủy băn khoăn hỏi.

     -“Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ.”

      Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.

     -“Thùng!… Thùng!…Hoan hô!…Hoan hô!” , chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.

     -“Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!”  Hạ Sĩ Phi lại đổ quạu. 

     -“Cành! Cành! Cành!… Cành!… Cành! Cành!” Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết. 

     Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi,

     -“Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!”

Tôi nghe tiếng Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng LĐ24/BĐQ,

     -“Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!”  

giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.

     Nghe ba tiếng “Đường-Sơn Quán”, tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ Chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sé San là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương Bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là “Anh Hai”. Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng “Anh Hai” của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, “Anh Hai” lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn II giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim “Đường-Sơn Đại-Huynh” được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh “Đường-Sơn Đại-Huynh” chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý Tiểu Long, tài tử chính của phim này.

     Sau khi “Anh Hai” vào Plei-Me nhận Tiểu Đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái “Đường-Sơn” khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía. Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,

     -“Có phải Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?”

     -“Phải rồi! 82 đây!”

     -“Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!”

     -“Có ai ở đó không?”

     -“Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng”

      Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung Úy Trâm và thằng Don ngồi trên  cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,

     -“Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!” 

     Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho “hòa bình”  có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ Sĩ Phi, một của Trung Sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.

     Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la,

     -“Bắn! Bắn!… Không cho đứa nào chạy thoát!”

     Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. “Hòa bình” rồi, tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?

     -“Choác! Choác! ….Choác!” 

     Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun “phì…phì…” che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,

     -“Đưa tao!”

     Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. “Oành!” một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu; máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay. 

     Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu. Hạ Sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, “Cành! Cành!…” -“Choác! Choác!…” – “Xoẹt! Xoẹt!…” -“Oành! Oành!…”  Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.  

     -“Cành! Cành! Cành!…” Trên xe, Hạ Sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù,  vừa la rú như người mất trí, 

     –“Đù má tụi mi! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!”  

     Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của Quốc Lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung Sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến. 

     Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, Vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả…răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé… Binh Nhứt Liêu Chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ). 

     Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng Trung Úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,

      –“Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !” 

      -“Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!”

     Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ “đúp” (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ Sĩ Phi vỡ óc. Hạ Sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút chạy vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.

     Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung Sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung Sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,

     “Chạy đi!…Ông thày…chạy đi!…” 

     Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ “toang toác!” trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ. 

     –“Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi!”  đó là tiếng Trung Úy Trâm.

     “Toác!Toác!”- “Chíu! Chíu!”  đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất.

     Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban-Mê-Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,

     –“Ôi!…Ôi!… Ông Trời ơi!…Ông Trời ơi!…ơi…ơi…” 

     Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung Úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.

     –“Trâm ơi ! Làm ơn! …Cho anh chết! Trâm ơi!…” 

     Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung Úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường,

     –“Ông Thiếu Tá bị thương hả?” 

     Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,

     –“Ông Trung Úy lấy xe này đưa Thiếu Tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!”

     -“Cám ơn cụ!”

     Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.

     Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,

     –“Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?” 

     Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, “Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!”

     Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,

     –“Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi! “

     Trung Úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau. “Hu … hu… hu….”  

     Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.

     Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng Quốc Lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ,

     –“Thiếu Tá lên xe, em chở đi trốn.” 

     Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.

     –“Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông Thiếu Tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác Thiếu Tá. Chúng đang túa đi lùng.  Em sẽ đưa Thiếu Tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt.” 

     Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,

     –“Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!” 

     Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc Di-Cư,

     –“Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!”

     -“Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!”

     Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,

     –“Hai đứa lấy quần áo ‘si-vin’ của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!” 

    Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà. Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp, 

       –“Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?” một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.  

     –“Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng…”

     Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,

     -“Chứ hai anh kia làm chi rứa? ” 

     -“Anh Cả và anh Hai của tôi đó!”  Hải nhanh miệng.

     –“Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt.”  Bà cụ phân trần.

     Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,

     -“Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!” 

     Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về,

     –“Thiếu Tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi.” 

     -“Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!” bà cụ ân cần.

     -“Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào.” Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.

     –“Thưa Mẹ! Con đi!”

     -“Thưa Mẹ! Con đi!” 

     -“Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!” 

     Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo.

     Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi,

“Thái Sơn ơi! Trâm ơi!”

     Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu Úy Trần Văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang.  Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố.

     Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)

     Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.

     Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt-Nam Cộng-Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô…

     Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn Gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng Đoàn Phòng Vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy.

     Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia…

     Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung Úy Trần Văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất. 

     Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu “Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh”. Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi,

     “Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!”

     Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn.

     Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu Úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.

     Thời gian trôi…

     Mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca “Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh”. Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái  giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời,

     –“Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!”

     –“Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!”  anh Bắc-Kỳ mừng rỡ.

     Bà chủ nhà nghệch mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.

     Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không?

     Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến Quốc Lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số “82” màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói. 

     Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,

     –“Các chú tha lỗi cho anh…”  

     Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột,

     -“Thày ơi! Chạy đi!… Thày ơi!…”

     Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ…

 

     Vương mộng Long

*Bài in trên TS/BĐQ số 20

 

Lễ Thượng Kỳ VN Tự Do,30.4.12, Toronto, BÙI BẢO SƠN

Lễ Thượng Kỳ Việt Nam Tự Do

tại Toronto, ngày 30-4-2012

 

Lễ Thượng Kỳ Việt Nam Tự Do tại Toronto, 30-4-2012
trước Tòa Thị Chính Toronto Nathan Phillips Square do Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Toronto tổ chức.

Hình ảnh  do BÙI BẢO SƠN thực hiện, xin bấm theo link sau:

http://www.flickr.com/photos/sonbui/sets/72157629927665685/show/

Cuộc chiến đấu bi hùng của TSQ Vũng Tàu, ĐÀO VŨ ANH HÙNG

Xin mời đọc lại một trang chiến sử hào hùng và đẫm lệ của trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam Cộng Hòa chống lại quân cộng sản Bắc Việt vào đêm 29 và ngày 30.4.1975 được  nhà văn Không Quân Đào Vũ Anh Hùng ghi lại .
Chân thành cám ơn anh Đào Vũ Anh Hùng đã dành nhiều ưu ái cho Blog LNTH

Cuộc chiến đấu bi hùng của TSQ Vũng Tàu

ĐÀO VŨ ANH HÙNG

Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam Cộng Hòa tại Vũng Tàu

Bài ca biệt ly của quân lực VNCH được diễn tả bằng những hành động, những trận đánh ngoạn mục của người lính VNCH trong trận thư hùng với các binh đoàn Cộng Sản lần cuối vào những giờ phút hấp hối của miền Nam. Đó là những trận đánh cực cùng dũng cảm, bi thương, hùng tráng và tuyệt vọng, trước sự chứng kiến của cả trăm ký giả, phóng viên ngoại quốc, những nhà ngoại giao, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu quân sử …

Đó là Thiên Anh Hùng Ca bất khuất của một quân lực trong suốt hơn hai mươi năm chống giữ và bảo vệ cái tiền đồn của thế giới tự do trước làn sóng xâm lăng cộng sản. Thiên anh hùng ca bất hủ đã được nhiều nhân chứng tôn vinh và ngưỡng phục. Sau cuộc tan hoang, miền Nam Viêt Nam bị mất về tay CS, nhiều người đã công khai nói lên lòng cảm phục cùng sự thương tiếc cho một quân lực hùng mạnh và quả cảm đã gánh chịu một kết thúc đau thương, ngập tràn uất hận.

Ký giả Peter Kahn của đại nhật báo The Wall Street Journal, dưới cái tựa “Truy Điệu Nam Việt Nam” ngày 2-5-75, nghĩa là hai ngày sau khi Sài Gòn sụp đổ đã ngậm ngùi kết luận: “Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm và không phải họ luôn luôn được người Mỹ giúp đỡ. Tôi nghĩ không có quốc gia nào có thể chịu đựng được một cuộc chiến dai dẳng và tàn khốc đến như vậy …. Rốt cuộc quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của mọi người.

David Halberstam, một ký giả Mỹ đầy thiên lệch khi nhận định về chiến tranh Việt Nam, nhưng khi chứng kiến sự sụp đổ của miền Nam thì cũng phải phẫn nộ thú nhận trên tờ Newsweek, ” Tất cả những sự thất bại lịch sử và những sự hèn nhát tồi tệ của biết bao nhà lãnh đạo Tây phương đều chồng chất lên lưng những người lính Nam Việt Nam … Thật là bất lương và bất công ! Sự nhục nhã là của chúng ta chứ KHÔNG PHẢI LÀ CỦA QUÂN ĐỘI VNCH !”

Hầu hết các phóng viên báo chí, các ký giả ngoại quốc trước đây từng công khai bênh vực và nghiêng hẳn về phe VC, đã phản tỉnh đã xám hối khi chứng kiến cuộc kháng cự dũng mãnh, hào hùng và bi thảm của những đơn vị quân đội ở lại chiến đấu cho đến người lính cuối cùng, đến giọt máu cuối cùng. Piere Darcourt đã nồng nhiệt ca tụng lòng dũng cảm của quân lực VNCH ở Xuân Lộc, của một đơn vị Nhảy Dù ở Lăng Cha Cả, của anh em Biệt Kích 81 ở Bộ Tổng Tham Mưu và dành sẵn một đoạn dài mô tả cuộc chống trả hiên ngang của các Sinh Viên trường Võ Bị Đà Lạt trên các đường phố Sài Gòn. Người ta đã nói rất nhiều đến những tấm gương tuẫn tiết của các vị Tướng anh hùng, những cuộc tự sát tập thể của những người lính vô danh VNCH không chịu đầu hàng kẻ thù, nói đến những kỳ tích chiến đấu của những đơn vị Quân Lực miền Nam.

Một trong những trận đánh anh hùng ấy đã làm mủi lòng biết bao nhiêu người, đã gây xúc động biết bao nhiêu con tim. Những giòng nước mắt đã dàn dụa đổ xuống khi chứng kiến cuộc chống trả tuyệt vời và ngoạn mục có thể nói trên thế giới, không một quân sử nước nào có thể có được.

Đó là cuộc chống trả của các THIẾU SINH QUÂN ở Vũng Tàu trong đêm 29 và gần trọn ngày 30-4-75, khi cộng quân xâm nhập và chiếm đóng các vị trí trọng yếu trong Thị Xã.Vũng Tàu coi như bỏ ngỏ và rơi vào tay cộng quân. Ngoại trừ một cứ điểm duy nhất còn chống cự do những thiếu niên tuổi 12, 13 …. đến 17 tự lập phòng tuyến quyết tâm tử thủ. Cứ điểm đó là trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu và những chiến sỹ gan dạ anh hùng đó là những thiếu sinh măng trẻ của trường.

Địch đã tung hai tiểu đoàn xung kích bao vây cứ điểm cuối cùng này nhưng chúng đã gặp phải một lực lượng vũ trang đáng kể hiên ngang đương đầu với chúng. Cộng sản đã coi thường những chú lính sữa chưa bao giờ biết mùi trận mạc. Chúng bắc loa kêu gọi các em đầu hàng và buông lời hăm doạ … Tiếng loa vừa dứt, Viêt Cộng nhận ngay một tràng đại liên thay cho câu trả lời, gọn gàng và cương quyết của gần 700 tay súng tí hon. Tiếp theo là hàng trăm mũi súng nhắm thẳng vào bọn VC bên ngoài, phẫn nộ lảy cò. Vài tên Bộ Đội bị đốn ngã ngay trong loạt đạn đầu tiên. Bọn Viêt Cộng phải đứng khựng lại trước tinh thần quyết tử cuả 700 hậu duệ anh hùng Trần Quốc Toản. Chúng không dám tấn công ngay vì các em quá nhỏ và vì có sự hiện diện của đồng bào.
Chúng lui ra xa tránh đạn, bắc loa ra lệnh các em phải đầu hàng đúng 9:30 sáng hôm sau, ngày 30 tháng Tư.

Mặc VC kêu gọi và đe doạ, Thiếu Sinh Quân vẫn kiên trì tử thủ, khiêng chướng ngại vật làm lũy phòng ngự, tổ chức giao liên, tiếp tế đạn dược, nước uống và lương khô, cứu thương và cứu hoả …. Anh lớn chỉ huy các em nhỏ, áp dụng tuyệt vời những bài học quân sự và kỹ thuật tác chiến đã được giảng dậy ở quân trường.

Đúng 9:30 sáng ngày 30-4. Cộng quân ra lệnh gọi đầu hàng lần chót nhưng các chiến sỹ tí hon vẫn kiên quyết kháng cự, trả lời chúng bằng những loạt đạn dữ dội hơn.
VC nổi cơn khát máu. Chúng khai hoả, mở cuộc tấn công ào ạt mong giải quyết chiến trường nhanh chóng. Nhưng chúng phải lập tức dội ngược lại, không ngờ sức chống cự quá mãnh liệt và hoả lực từ bên trong bắn ra vô cùng chính xác vào những bia sống, những cái bia người “SINH BẮC TỬ NAM”. Các em chưa bao giờ được bắn, nay đã bắn với tất cả căm thù, mong giành lại những gì sắp bị cướp mất.

Thiếu Sinh Quân có đầy đủ vũ khí cá nhân và vũ khí cộng đồng. Ngoài ra còn có lợi điểm là các công sự trong trường, vừa đánh vừa di chuyển, ẩn núp, trong khi bộ đội VC lớ ngớ như bầy chuột chù ra ngoài ánh sáng. Lại có những thanh thiếu niên và Quân Nhân vỡ ngũ bên ngoài hào hứng và kích động, tìm cách lẻn vào tăng cường tay súng, nhập cuộc cùng các Thiếu Sinh Quân chiến đấu ngay trong sân trường, đột kích, đánh bọc hậu bọn bộ đội khiến chúng nao núng và hốt hoảng.

VC đã bắn sập một khoảng tường nhưng không thể nào vượt qua được lưới đạn của các chiến sỹ nhỏ tuổi nhưng can trường. Các em đã chiến đấu thật gan dạ, nhanh nhẹn, khôn ngoan, phối hợp nhịp nhàng và KỶ LUẬT như những đơn vị tinh nhuệ, thiện chiến nhà nghề.
Đây là trận đánh thực sự đầu tiên và cũng là trận đánh cuối cùng của các em còn đang dở dang khoá học. Trận đánh QUYẾT TỬ đã đi vào lịch sử.
Các Thiếu Sinh Quân đã chiến đấu không nao núng dù có nhiều em ngã gục. Những đứa con bé bỏng của quê hương đã chết trong giờ phút cuối cùng của miền Nam, khi tóc còn xanh, mộng đời chưa trọn. Đồng bào chứng kiến cảnh bi thương này đã oà lên khóc. Có những bà mẹ kêu gào, lăn xả vào cản ngăn họng súng bọn bộ đội để che chở cho những thiếu niên ở bên trong.

Tiếng nổ, tiếng hò hét, tiếng kêu khóc, tiếng loa uy hiếp của VC đã tạo nên một không khí chiến trường lạ lùng chưa từng thấy …. Các Thiếu Sinh Quân chiến đấu với tất cả nhiệt tình và sinh lực của tuổi trẻ hăng say hào hứng như đang tham dự một trò chơi lớn.

Cuộc chống cự kéo dài đến 3:00 chiều. Cho đến khi kho đạn dược đã cạn và kho lương thực bị bốc cháy, các Thiếu Sinh Quân mới bằng lòng cho VC thương thảo. Họ đòi hỏi VC chấp nhận một giờ ngưng bắn, sau đó sẽ buông súng và mở cổng …
Và các em đã dùng một giờ ngưng bắn để thu dọn chiến trường, săn sóc đồng đội bị thương, gói liệm thi hài những vị tiểu anh hùng đã gục ngã, và chuẩn bị làm lễ hạ kỳ. Họ KHÔNG ĐỂ CHO BỌN CS làm nhục lá cờ VÀNG BA SỌC ĐỎ, lá cờ biểu tượng thiêng liêng gói ủ hồn dân tộc mà họ đã thề nguyền PHẢI THƯƠNG YÊU và BẢO VỆ.

Có chừng hơn một Trung Đội TSQ đã tập họp trước sân cờ, đứng trang nghiêm và thành kính nhìn lên lá Quốc Kỳ còn nguyên vẹn màu tươi thắm bay phất phới trên nền mây ngọc bích. Hai TSQ lớp 12 là Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Chung bước tới, đứng nghiêm trước kỳ đài theo lễ nghi quân cách, dơ tay chào. Họ từ từ nắm từng nấc giây, cho lá cờ hạ xuống thật chậm và từ tốn như cố kéo dài giây phút thiêng liêng cảm động này, nước mắt đầm đìa.

Tất cả TSQ từ trong các tầng lầu, từ các hố cá nhân, các giao thông hào, sau những gốc cây, bờ tường, sau những mái nhà…., không ai bảo ai, đồng loạt đứng bật dậy đồng thanh cất tiếng hát bài quốc ca.
Gần 700 giọng hát hùng tráng cất lên, vang khắp sân trường. Bọn bộ đội nghe, ngơ ngác không phản ứng. Tiếng hát phủ tràn trên tuyến địch vang đến tận bãi Dâu, đến tận Bến Đình………… Mọi người dân Vũng Tàu  đều nghe và rúng động. Tiếng hát bay ra biển khơi, bay lên trời cao, âm thanh lồng lộng theo gió chiều, đất trời cũng ngẩn ngơ rớm lệ theo tiếng hát.
Các Thiếu Sinh Quân đã làm lễ mai táng đất nước, đã TRANG NGHIÊM RỬA SẠCH tấm bia DANH DỰ của Quân Đội VNCH, đã vuốt mắt cho Mẹ Việt Nam yên nghỉ qua lễ hạ kỳ lần cuối chỉ một không hai này. Họ hát bằng tiếng nấc thê lương và phẫn uất từ sâu thẳm trái tim, với những nghẹn ngào cùng dàn dụa nước mắt. Đồng bào cùng dạt dào thương tủi và thổn thức hát theo.

Thời gian như ngưng đọng lại trong giờ khắc thiêng liêng và bi thảm, xúc động cực cùng lẫm liệt đó.
Cho đến bây giờ, 37 năm sau, nhiều người vẫn nghe văng vẳng trong sâu kín của buồng tim đã thắt nghẹn, tiếng bi thương hùng tráng của các Thiếu Sinh Quân hát bài Quốc Ca trên đất nước, trong ngày cuối cùng của Tháng Tư Đen, ngày oan khiên định mệnh của dân tộc Việt .

Đào Vũ Anh Hùng

Cuộc chiến đấu bi hùng của TSQ Vũng Tàu, PPS LNTH

Cuộc chiến đấu bi hùng của TSQ Vũng Tàu, Phần 1

Đào Vũ Anh Hùng

PPS LNTH

 

Cuộc chiến đấu bi hùng của TSQ Vũng Tàu, Phần 2,Hết.

Đào Vũ Anh Hùng

PPS LNTH

Vị Thánh trại Nam Hà, LÊ KHÁNH THỌ (France)

Xin giới thiệu  bài viết của Văn sĩ/Họa sĩ Lê Khánh Thọ về cụ Phan Đình Phùng đã hiển linh tại trại tù cải tạo Nam Hà, nơi mà thân phụ của chị là cố Đại tá Lê Quang Bình đã chịu tù đày cải tạo trong nhiều năm.

Cám ơn chị Khánh Thọ đã dành nhiều ưu ái cho Blog LNTH.

Cụ Phan Đình Phùng (1847-1895).

Vị Thánh trại Nam Hà

LÊ KHÁNH THỌ (France)

 Mấy hôm rồi giấc ngủ vẫn chập chờn chưa quen giờ giấc thay đổi…Tiếng chim hót líu lo vào buổi sáng mùa hè Cali và sự yên tĩnh dễ chịu tương tự như vùng tôi ở bên nước Pháp. Vợ chồng cô em út đã đi làm từ lâu. Có tiếng lách cách khóa cửa. Tôi lên tiếng :

— Ba hở Ba ?

—Ờ, Ba đây. Ba mới đưa hai đứa nhỏ tới trường.

Ba hay thật ! 83 tuổI vẫn còn lái xe! Bước ra vườn thấy bóng dáng Ba lù khù đang kéo một thùng rác thật lớn ra sân trước, tôi lật đật chạy tới phụ nhưng Ba tôi khoát tay biểu :

—Thôi con ! Ba làm quen rồi !

Tôi ái ngại nhìn theo, bùi ngùi nhớ hình ảnh thời Ba còn giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, oai nghiêm trong bộ quân phục đính ba bông mai trắng.

Buổi trưa chỉ có hai cha con ngồi ăn cơm. Trên bàn bày ê hề thức ăn của cô em út mỗi sáng chịu khó dậy từ 6 giờ nấu nướng. Tôi ngạc nhiên vì Ba không gắp những món ngon mới nấu, Ba cứ loay hoay với hủ cá chà bông. Chắc chắn đồ ăn thừa sẽ cất vào tủ lạnh, rồi lại đổ cho đàn mèo hoang sau vườn như mọi hôm. Tôi hỏi :

—Răng Ba không ăn mấy món kia Ba?

—Con Mỹ gởi từ Sài gòn qua cả tháng mà không đứa mô ăn, ba phải ăn kẻo bỏ uổng. Hồi còn ở tù Cọng sản làm chi có được món quí như ri con !

Tôi nghĩ thầm sẽ dặn cô em bên Việt nam đừng gởi đồ khô qua đây nữa. Nó không biết Ba vẫn luôn luôn ám ảnh về dĩ vãng hãi hùng của 13 năm tù cải tạo.Tôi tò mò hỏi :

—Hồi ở trong tù Ba ăn chi rứa Ba?

—Ba ăn sắn khô, loại dành cho súc vật ăn và bo bo nguyên vỏ của Ấn Độ viện trợ. Cực khổ lắm ! Mỗi ngày đều có năm ba người chết vì đói, vì rét hay lao động kiệt sức.

—Con nghe nói tù cảI tạo đói quá vô rừng thấy rắn rít chi cũng bắt ăn phảI không Ba?

—Đúng rứa. Con chi cũng ăn, chỉ trừ con bù lon là không ăn thôi! Thành ra có một số ngườI chết thảm vì ăn trúng độc.

Tôi ngạc nhiên :

—Con bù lon là con chi rứa Ba ?

—A, lối nói của anh em trong tù. Ý là …bù lon đinh ốc ăn không được!

Tôi bật cười nhưng vội nghiêm lại khi chạm phải gương mặt u uẩn của Ba.

—Có ai bỏ trốn không Ba?

—Chỗ đó toàn là đá vôi. Khó trốn lắm! TrạI Ba ở có một số anh em trốn thoát nhưng qua vài ba ngày sau cũng bị bắt lại.

—Họ bị đánh không Ba?

Ba tôi phẫn uất:

—Úi chầu! tụi nó đánh gần chết! Như trường hợp Linh mục Nguyễn hữu Lễ bị đánh và bác Tiếu cũng bị đánh gãy xương sườn.TộI nghiệp Bác qua tới Mỹ chưa sướng được bao lâu thì mất! Chút nữa Ba đưa con đọc cuốn “Tôi phảI sống” của cha Lễ viết.

Tôi bàng hoàng nhớ tới ĐạI tá Trịnh Tiếu, bác nguyên là Trưởng phòng 2, quân Đoàn II, sau này bác làm Tỉnh trưởng Ban mê Thuộc, là bạn thân của ba tôi và con gái bác là bạn thân của tôi. Trước ngày vượt biên, Trúc Mai tớI từ giã và cho biết bác Tiếu nhất định trốn không ra trình diện cảI tạo, nhưng không may cuộc vượt biên thất bại!

Nghe chuyện ngườI đánh ngườI, tôi bỗng nao nao buồn. Cùng một dân tộc, cùng một màu da, cùng một tiếng nói mà họ nỡ lòng nào! Ôi Cộng Sản Việt nam sao tàn nhẫn quá !

*

Pha ly nước trà sen bưng ra phòng khách, tôi rón rén ngồI đốI diện vớI Ba. Bất động, ngẩn mặt nhìn vào chân không, trên gương mặt vốn cương nghị của Ba đầy những nếp nhăn tuổI lão hằn sâu biểu hiện niềm chịu đựng, nhẫn nhục và cay đắng. Đôi mắt u uẩn xa xăm dường như đang trở về quá khứ, một quá khứ ai oán của tù nhân chính trị khóc cho thân phận mình, cho đất nước và cho cả một dân tộc Việt nam đang bị một bọn ngườI dã man, vô lương tâm thống trị.

Tôi chợt nhớ lạI khoảng năm 82 đang ở Pháp, được thư cô em bên nhà kể chuyện lần đầu tiên thăm nuôi Ba: “Em nhận Ba không ra chị ơi. Ba rụng hết răng rồi, trông Ba như bộ xương khô xiêu vẹo biết đi!” . Mặc dù tôi không quên gởI quà cho Ba nhưng trong tôi vẫn áy náy mang mặc cảm mình thiếu sót bổn phận làm con, vì đã không lặn lộI đường xa vạn dặm đến thăm Ba, động viên tinh thần trong lúc Ba đang ở trong tận cùng của nổI nghiệt ngã cuộc đời. Mẹ tôi mất vào lúc Ba đang du học bên Mỹ, khi tôi tròn 13 tuổI. Cái tuổI dậy thì đầy mộng mơ nhưng đột nhiên mất thăng bằng, hụt hẩng tình mẫu tử và tôi đã đặt tất cả niềm thương yêu, ngưỡng mộ vào Ba. Cho dù đến bây giờ vớI số tuổI 53, mãi mãi Ba vẫn là thần tượng của tôi.

Phá tan sự im lặng, tôi mờI Ba uống nước và nhỏ nhẹ khơi chuyện:

—Ba có còn nhớ hết những nhà tù của Ba không?

—Nhớ chớ sao không nhớ! Thời gian lao lý của Ba bắt đầu vào tháng 6/1975. Ban đầu chúng nhốt ở Long Khánh , sau nó đưa tụi Ba về trạI SuốI Máu ở Biên Hòa. Đến tháng 6/ 1976, nửa đêm tất cả bị di chuyển ra ngoài Bắc ở tỉnhYên Báy. Có lần nhóm Ba đi làm trong rừng, gặp một vài ngườI cũ hồI xưa kiểu như Tri Huyện, Chánh Tổng, Địa Chủ, quan chức chính quyền quốc gia trong liên hiệp Pháp thờI trước, nay vẫn còn bị quản thúc trên núi. Họ kể bọn Cộng Sản độc ác đến nổI khi họ lao động được 1 hay 2 năm, trồng cây, trồng chuốI khá rồI thì tụI nó bắt di chuyển đi nơi khác và bắt đầu làm lại. Cái vòng luẩn quẩn ấy đã mấy mươi năm rồi. Họ uất hận và đau buồn lắm! Họ than thở: “Chúng tôi cứ tưởng các ông ở trong đó ra đây giảI phóng chúng tôi . Chớ ai ngờ bây giờ các ông cũng bị lâm vào hoàn cảnh này thật là bi đát không khác gì chúng tôi!”.

—Sau đó Ba bị đi đâu?

—Tháng 6/79 Trung quốc rục rịch chuẩn bị cho tụi Việt Cộng bài học, do đó các trạI tù bị di chuyển về trạI Nam Hà, vùng rừng núi tỉnh Hà Nam Ninh. TrạI này gọI là trại Ba Sao. TrạI Nam Hà do công an bộ nộI vụ quản lý. Chế độ vô cùng khắc nghiệt, cuộc sống hết sức bi thảm. Đúng là địa ngục trần gian! Ngày mô cũng có vài ngườI chết. Khiếp đảm lắm! Những người nào may mắn có đức tin chỉ biết thành tâm cầu nguyện vì đó là nơi bám víu duy nhất để sống và nuôi hy vọng.

Tất cả các tôn giáo đều cầu nguyện. Gồm có đủ các vị lãnh đạo tinh thần như Cao Đài, Hòa Hảo, Công giáo, Phật giáo. Sau gần một tháng khẩn cầu thì tốI 12/12/1979 có một vị Thánh giáng cơ vào buồng 1, tức là buồng của Thủ tướng Lộc, Phó chủ tịch Thượng Viện Hoàng xuân Tửu, Linh mục Nguyễn văn Minh, Bộ trưởng Lê ngọc Chấn…Vị thánh là cụ Phan đình Phùng, danh hiệu Tùng La.

Cảm giác hồi hộp thích thú như hồI còn bé được nghe kể chuyện siêu hình thần bí, tôi rờI chỗ xích tới ngồI gần Ba hơn. Tôi nôn nóng:

—Hay quá! Cầu cơ à! Thánh viết chi rứa Ba?

—Thánh cho thơ:

Đông phong thúc dục cảnh sầu thương
Chạnh bấy lòng dân khó liệu lường
Trắc ẩn khuyên ai đừng ngán nổi
Có buồn có khổ rạng đài gương

Sau đó Cụ cho luôn thơ bằng chữ Nho:

Trì trì bộ bộ bộ trì trì
Cử bộ thời lai hữu hỉ kỳ
Nguyên phụ cao bồi tư hóa dục
Thanh phân thiên tảI tụng hòa vy

Tôi ngẩn ngườI ra:

–Con không hiểu chi hết!

—Ý Cụ dạy là phải chậm từng bước, ơn trên đang lo lắng cho mình. Còn đây là bài Cụ cho về vấn đề cuộc đời là một sự vay trả:

Vay trả cuộc đờI thói đổI thay
Bể dâu riêng khóc hận vơi đầy
Tay khoanh há dễ ôm hờn tủI
Mặt ngoảnh đành cam chịu đắng cay
Hay dở biết nhìn khi phảI tỉnh
Đảo điên trông thấy lúc cần say
Mày râu giữ trọn nguyền sông núi
Bay thỏa sức bằng đợI gió mây

Cụ dạy bài thơ này thuộc về loạI thuận nghịch đọc. Đọc ngược cũng được.

Mây gió đợI bằng sức thỏa vay
Núi sông nguyền trọn giữ râu mày
Say cần lúc thấy trông điên đảo
Tỉnh phảI khi nhìn biết dở hay
Cay đắng chịu cam đành ngoảnh mặt
TủI hờn ôm dễ há khoanh tay
Đầy vơi hận khóc riêng dâu bể
Thay đổI thói đờI cuộc trả vay

Tôi ngạc nhiên bày tỏ niềm thán phục:

—Tuyệt quá ! Thơ đọc được cả hai chiều!

Thấy tôi hăng say theo dõi câu chuyện, Ba sôi nổi kể tiếp :

—Hồi ở trại Yên Báy chật lắm ! Phải nằm nửa người thôi, nằm nghiêng nghiêng với nhau vì không có chỗ. Khi về trại Nam Hà cũng chật nhưng may nằm vừa sát. Mỗi phòng có khoảng 100 tù nhân. Ba nằm gần anh Dương ngọc Bảo, cựu đại tá tham mưu trưởng bộ chỉ huy tiền phương quân đoàn 4 và anh Đàm Quang Yêu, cựu Đại tá tư lệnh biệt khu Quảng Đà. Phòng có hai tầng, tầng trên là ván gỗ. Ba lựa ngủ tầng dưới ciment vì Ba sợ rệp, nhưng nền ciment thì lại bị lạnh lắm ! Ba ở buồng 8, thành khẩn khấn nguyện xin Thánh Tùng La soi sáng cho biết tương lai bản thân mình sẽ được trở về quê hương hay là sẽ bị ngã gục trong lao tù Cọng sản. Sáng ngày khi trạI tù mở cổng, anh Hoàng xuân Tửu ở buồng 1, là Phó chủ tịch Thượng Viện, đưa bài thơ có ghi dướI hàng chữ “Cho ĐạI tá Bình hiện đang khấn nguyện ở buồng 8”. Anh kể anh thưa vớI Cụ: “ Con biết anh Bình. Vậy con xin nhận bài thơ này. Sáng ngày lao động con sẽ đưa lạI cho anh Bình”.

Tôi nôn nóng :

—Ba còn thuộc không Ba?

Gương mặt Ba rạng rỡ, say sưa ngâm:

Huế xinh Huế đẹp đất thần kinh
Ấp ủ bao năm một khối tình
Dâu bể tang thương cùng tuế nguyệt
Hẹn ngày tái ngộ vớI Hương Bình

Anh Tửu kể thêm : Cụ giảI thích Cụ dùng chữ “khốI tình” có ý là tình nhà, tình nước, tình dân tộc. Ba đọc xong lòng cảm thấy vui mừng và phấn khởI vô cùng, chứa chan hy vọng và tin tưởng ở tương lai. Hàng tháng ngày rằm hay mồng một hoặc lúc nào thuận tiện thì anh em tất cả có thành tâm cầu nguyện là được ngài giáng cho thơ, tùy theo sở nguyện của cá nhân hay tập thể. Đặc biệt những bài thơ Cụ cho Ba thường có chữ Hương Bình.

Ngày sau trở lại chốn Hương Bình
Sông núi bấy giờ thật đẹp xinh
Cay đắng không quên điều trọng nghĩa
Gian nan giữ trọn mốI thâm tình
Tinh thần thanh thản cùng câu sách
Tâm trí nhẹ nhàng với cuốn kinh
Huyền diệu lẽ TrờI là thế đó
Niềm vui tất cả chẳng riêng mình

—Chắc ai cũng xin Cụ cho biết có hy vọng ngày về !

—Đúng như rứa. Cụ giáng thơ:

Thu thiên sương giáng động tây phong
Trục phất nam sơn xuất khí nồng
Nguyệt khuyết tàn vân tà ngọc thố
Đãi thờI luyện dực điểu phi thông

Sau này về được rồI thì mới nghiệm lờI Cụ cho rất linh ứng. Ngọc thố là con thỏ. Người Tàu gọi mão là thỏ. Đa số anh em được về năm mão, trong đó có Ba.

—Cụ cho tất cả bao nhiêu bài thơ hở Ba ?

—Cho chung hơn cả ngàn bài. Tùy theo sở cầu, sở nguyện của mỗi người thì Cụ cho. Phần Ba được khoảng trăm bài. Ba có ghi lại những bài còn nhớ. À, một chuyện đặc biệt…

Anh Nguyễn văn Hiểu làm tòa lãnh sự Mỹ ở Nha Trang, anh đã đi theo tàu Thương Tín qua đảo Guam nhưng anh tranh đấu để đòi về. Ngờ đâu Việt Cộng nó cũng nhốt anh ở trại Nam Hà. Ban đêm khi anh em cầu nguyện, thường thấy anh ngồi lâm râm một góc. Sau này mới biết té ra anh cũng đang khấn Cụ, xin Cụ cho biết tương lai. Anh được Cụ giáng thơ :

Chưa hiểu được mình khó hiểu ai !
Nhọc công thở vắn với than dài
Khá khen con tạo đành đưa đẩy
Trách bấy hóa công khéo đặt bày
Lỡ bước sa cơ hay dối trá
Chồn chân thất thế nếm chua cay
Ăn năn sám hối điều sai trái
Có lúc chim lồng sổ cánh bay

Sáng ngày đi lao động anh được người ta đưa thơ Cụ cho anh. Anh vui mừng lạy Cụ quá trời ! Hay ở chỗ anh này tên Hiểu nhưng chưa hiểu được người. Chưa hiểu được mình khó hiểu ai !

—Có ông nào hỏi chuyện vợ con không Ba ?

—Có chớ ! Một ông giám đốc khấn nguyện xin Cụ cho biết vợ anh hiện đang ở bên Pháp, sau này anh được tái ngộ hay không ? Cụ cho thơ :

Xa xuôi khó nổI tỏ lòng nhau
Kẻ luống nhớ thương kẻ dãi dầu
Lan quế sớm hôm còn nghĩa nặng
Trúc mai năm tháng đượm tình sâu
Ươm hoa hoa cũ càng thêm sắc
Ủ nhụy nhụy xưa vẫn đượm màu
Nhắn vớI lang quân niềm trọn vẹn
Có ngày gió Á gặp mưa Âu

Nhận thơ, anh mừng quá bái lạy bốn phương cảm tạ Trời Đất .Tinh thần anh lên làm các bạn tù cũng vui lây.

Tôi thắc mắc:

—Khi cầu cơ bộ không ai sợ bọn ăng-ten báo cáo sao Ba?

—Sợ chớ răng không sợ! Nhưng mà mình canh chừng tụI nó ngủ mớI dám cầu. Có một vị Tuyên úy trình vớI Cụ hiện bây giờ ăng-ten trong trạI rất nhiều, hể hở ra là tụi nó báo cáo. Cụ hạ bút ngay:

Đông đến mang theo giá lạnh về
Tháng ngày mưa gió liệu mà che
Súng rền đất Bắc nghe chan chát
Gió giật phương Nam thấy lập loè
Lao lý vẫn không quên nghĩa cả
Đắng cay càng mãi nặng tình quê
Mặc ai tráo trở đờI đen bạc
Giấy rách nhưng ta giữ lấy lề

—Chuyện Cụ giáng cho thơ có được phổ biến không Ba?

—À, Ba có hỏI Cụ: “ Sau này con được về con sẽ kể chuyện Cụ giáng xuống giúp bọn con, con xin thỉnh ý Cụ?” Cụ dạy: “ Cứ nói, nhưng vớI ngườI thiện tri thức có học mình nên nói. Còn với kẻ phàm phu tục tử đã không biết gì mình không nên. TạI sao? Là vì họ đã không hiểu mà nhiều khi họ còn báng bổ thì sẽ có tội với Trời Đất ». Cho nên Cụ dạy : « Bỉ nhơn mỗi lần giáng trần đều có cho thơ Đường. Bởi vì sao ? Bởi vì âm dương cũng có chánh tà. Nhiều khi ma quỷ nó về, nó hiện vô cơ huyênh hoang, nó nói tầm bậy. Cho nên Cụ Phan đình Phùng, tức là Thánh Tùng La thì luôn luôn phải có thơ Đường. Không phải thơ Đường tức là không phải Cụ. Cụ bảo mục đích Cụ cho con cháu biết rằng : «  Cuộc thế có thăng trầm, tình đời có đen bạc nhưng luôn luôn Trời Đất Thần Thánh Thần Linh vẫn ở với thế gian”.

Cụ cho bài kệ. Cụ dạy khi nào nghĩ tới Cụ hãy đọc bài kệ này :

Thiên hành kỷ quá. Thiên địa vô tư. Thậm ư huyền diệu. Nhật chiếu quang minh.
Dĩ kinh thiện ác. Củ soát dương trần. Báo ứng phân phân. Cứu thế ưu dân.
Tư phần tập đạo. Hạo hạo tự nhiên. Tâm kiên chí lập. Đáo cập thanh cao.
Chánh đạo trường tồn. Nhật nhật niệm ngôn.

***

Những câu chuyện thần bí như loạI này chỉ có hai cách: một là tin, hai là không thế thôi. Lý do đơn giản là ngườI trong cuộc, ngoài cuộc nghe kể lạI hoặc chứng kiến đi nữa cũng không có cách nào giảI thích sao cho có lý. Cũng vì lý do ấy cho nên ngườI ta còn có lý luận rằng: “Tin có thì có, không tin thì không”. Nhưng nói cách nào đi nữa tôi cũng ấm ức trong lòng, nhớ chuyện Mục Liên Thanh Đề được đem ra bàn cãi: NgườI mẹ tên Thanh Đề ác độc bị đày xuống địa ngục. Người con là ngài Mục Liên tu hành chứng quả A La Hán, có nhiều thần thông khác ngườI như lên trờI, xuống đất, nghe thấy vạn dặm xa, nghe được tiếng nói của các loài khác như quỷ, thần, thú vật…nên được mệnh danh là đệ nhất thần thông. Ngài cất công đi tìm mẹ và cuốI cùng ngài tìm thấy mẹ đang bị cực hình trong chín tầng địa ngục A -tỳ đói khát, ma quỷ đang hành tội. Ngài đã khóc hết nước mắt vì thương mẹ, ngài liền dùng thần thông dâng lên mẹ bát cơm cứu mẹ, nhưng cơm vừa tớI miệng bà Thanh Đề tự nhiên biến thành lửa, mẹ ăn không được còn đau khổ hơn! Ngài cầu cứu Phật nhưng biết ác nghiệp của bà Thanh Đề quá nặng không cứu được, Phật bảo:“—Con hãy chờ ngày Chư Tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, xin Chư Tăng cầu nguyện thì mới cứu được mẹ con”.

Ngài làm y theo lời Phật dạy và sau đó người mẹ thoát được địa ngục.

Tôi cảm thấy câu chuyện vô lý. Chư Tăng có quyền năng gì thắng được luật nhân quả!? Tôi đặt nghi vấn có biết bao nhiêu Phật tử đã tin mù quáng vào câu chuyện này chỉ vì ông bà mình tin thì mình tin theo!

May thay một anh bạn Phật tử đã lý giảI thế giớI tâm linh bằng tuệ giác một cách rất là khoa học. Trước hết anh trình bày về hiện tượng vật lý… Nếu cả ngàn người đi trên một cái cầu không đồng nhịp thì nó không sao, nhưng cũng ngàn ngườI đó cùng bước đồng nhịp thì tạo năng lượng làm cầu sụp đổ. Điều này giảI thích nhờ chú nguyện của Chư Tăng đông đảo và thanh tịnh sau 3 tháng nhập thất là trợ lực bên ngoài, cọng với Phật tánh sám hối là trợ duyên nên bà Thanh Đề thoát được địa ngục.

Trường hợp một số người tham dự khóa thiền ở làng Mai xứ Pháp đã khóc sung sướng khi được nghe lời Thầy Nhất Hạnh thuyết pháp. Những ngườI đàn ông này ngạc nhiên vì hiện tượng khóc chưa bao giờ xảy ra vào những lần trước đây. Chính nhờ năng lượng của gần hai ngàn tín đồ các nước trên thế giới ăn chay cả tuần lễ và thành tâm cầu nguyện, đã trợ lực làm sáng lên Phật tánh của họ bị che mờ từ bấy lâu nay.

Tôi suy luận qua câu chuyện của những người tù Cộng Sản…Khi những người tù đói, rét, tinh thần bị hành hạ thì chỗ dựa duy nhất của họ là cầu khẩn ơn trên. Sức mạnh tư tưởng, niềm tin tập trung vào quán niệm tâm linh của họ mạnh hơn gấp bội ngày xưa. Chính năng lượng khổng lồ này đã đi đúng tần số.

Tôi cố ôn lạI bài học lịch sử nhưng chỉ nhớ mơ hồ. Tôi hỏI:

—Con nhớ Cụ Phan đình Phùng đậu Tiến sĩ và chống Pháp, nhưng con quên chi tiết rồi.

— Thời đó Tây lập Vua Đồng Khánh. Tụi quân triều đình đông quá trời và còn có cả Tây hỗ trợ, trong khi trên núi ăn uống vô cùng cực khổ, Cụ bị kiết lỵ. Nhiều lần Cụ bảo : « Thôi bây giờ anh em cứ yên tâm . Để tui ra nộp mình cho nó yên đi ». Anh em khóc quá trời ! Thành ra Cụ phải ở lại Cụ gánh. Hoàng Cao Khải phái người đưa thơ lên núi năn nỉ Cụ về làm quan nhưng Cụ nhất quyết với non sông, chống Tây tới giọt máu cuối cùng. Cụ anh hùng khí phách như rứa mới hiển Thánh chớ đâu phải ai chết cũng hiển Thánh !

—Khi Ba được qua Mỹ rồi, Cụ còn giáng cho thơ không Ba ?

—Còn chớ ! Thường thì phải trên năm người Cụ mới giáng xuống. Hồi mới qua Mỹ, anh em bên Pháp, Texas qua đây tụ họp với nhau mỗi năm cầu Cụ. Có năm Cụ giáng ở nhà mình nì.

—Lúc còn ở trong tù có bài nào Cụ cho biết Ba được qua Mỹ không Ba ?

Mắt Ba sáng lên :

—Có chớ.

Ngày mai tươi sáng chẳng còn xa
Bỉ thái xưa nay thấy đó mà
Tươi sáng huy hoàng rồi sẽ đến
Mịt mù u tối cũng dần qua
Bền lòng có lúc đền ơn nước
Vững chí bao phen trả nợ nhà
Thử thách gian nguy nào sá kể
Đường về quê cũ rợp cờ Hoa

HồI đó anh em suy đoán chữ cờ Hoa là nhờ Mỹ can thiệp, anh em mừng quá trời ! Mà đúng thiệt! Sau này Mỹ ký kết nên anh em được qua Mỹ theo diện H.O.

Ba nhìn đồng hồ và nói:

—Áo quần sấy khô rồI, để Ba đi lấy vô.

Tôi theo Ba ra vườn. Năm nay Ba dựng thêm một cái chòi nhỏ chứa áo quần cũ. Ba không bao giờ chịu vô Shopping như tụI con gái của Ba. Ba khoái mua đồ chợ TrờI mỗI cái 1 đô, rồI giặt sạch treo lủng lẳng trong chòi giống một gian hàng chợ Trời. MỗI lần có ai đi Việt nam, Ba đóng thùng gởI về quê cho bà con nghèo. Ba chui vào chòi, lôi ra mấy cái áo len đưa tôi:

—Con coi thử cái mô mặc được thì đem về Pháp mà mặc. HồI ở tù ngoài Bắc lạnh quá trời! Ba bị ho hoài. Ba cứ tưởng bỏ xác ngoài nớ rồI chớ!

TộI nghiệp Ba lúc nào cũng bị ám ảnh bởI ngục tù Cộng sản! Tôi ngán ngẩm cầm mấy cái áo lỗI thời, không dám làm Ba buồn, nói “dạ, cám ơn Ba”nhưng định bụng trước khi trở về Pháp sẽ đem vô nhét lạI trong garage, nơi có hơn chục thùng đồ cũ của Ba.

May mà Ba sống chung vớI con rể cũng là nạn nhân tù cảI tạo, hoàn toàn thông cảm căn bịnh “số nhiều”của ông già vợ.

Ba ngồI bệt dướI tấm thảm, lui cui xếp đống áo quần của cả nhà. Ba hớn hở nói:

—Ngày ni Ba làm mấy chuyện lặt vặt cho xong. Mai Ba bận đi chùa. Ba phụ tá phần nghi lễ và là huynh trưởng Phật tử.

Tôi vừa phụ vừa hỏI chuyện:

—Năm ngoái Ba bị mỗ bướu gan, chừ đỡ chưa Ba ?

—Lành rồi. Người Mỹ tốt thiệt ! Tiền thuốc men, bịnh viện họ cho hết không tốn lấy một xu. Hồi ở tù một chai thuốc đỏ cũng không có ! Bịnh là chết !

Nhắc đến chữ « chết », Ba chợt nhớ ra, nhìn thẳng vào mặt tôi và nói với giọng bình thản :

—À, Ba dặn con Út rồi, khi mô Ba mất thì thiêu và đem về làng mình. Ba muốn được gần gũi ông bà tổ tiên.

Tôi nao nao xúc động…Ba thường tỏ lòng biết ơn người Mỹ, hết lời khen ngợi các nước yêu chuộng tự do vô cùng nhân đạo, tôn trọng nhân quyền, tín ngưỡng…nhưng Ba vẫn muốn gởi nắm xương tàn trên đất nước Việt nam.

Lê Khánh Thọ
France

Ngày định mệnh, HUY VĂN (BĐQ)

 Ngày định mệnh

  HUY VĂN

 

Tiếng loa kêu gọi tập họp vang lên liên tục. Đám bộ đội ôm súng hối hả chạy về các vọng gát. Hoạt cảnh quen mắt lúc đầu làm mọi người thót bụng, nhưng sau gần một tháng chung đụng thì ba mớ “ lên gân “ của kẻ coi tù đã trở thành một màn hài kịch không hơn không kém. Mỗi lần có tập họp- dù chỉ để ngồi ngoài sân cờ xem phim tài liệu của chiến trận vừa qua, hay loại phim tuyên truyền cho chế độ- thì y như là chúng sắp sửa đem ai đó ra xử bắn. Đám nón cối lúc nào cũng đằng đằng sát khí đứng bao quanh, súng chĩa ngang người, mắt trừng trừng thật căng thẳng. Nhưng có điều gì đó làm chúng tôi đưa mắt nhìn nhau rồi thì thầm dọ hỏi vì lần này chúng bắt tù tàn binh tập trung vào buổi sáng: chỉ mới hơn 9 giờ! Đành là đỡ lo lắng hơn những lần điểm danh bất thần vào buổi tối, hay cả lúc nửa đêm, nhưng vẫn là nỗi hoang mang của những kẻ đang nằm trong rọ, hay đúng hơn là trong cảnh tù đày. Chuyện gì nữa đây?! Mọi người nhìn nhau thầm hỏi.

Chuyển trại! Lời thông báo ngắn gọn của tên chính trị viên, đại diện ban quản giáo được chúng tôi đón nhận trong hoang mang như thường lệ. Đi đâu? Câu hỏi chỉ nằm trong đầu hoặc trao đổi qua tiếng thì thào với người đang đứng kề bên. Tù không có quyền thắc mắc và cai tù thì không cho biết thêm chi tiết, ngoại trừ mọi thứ phải được chuẩn bị trong thời gian nhanh nhứt. Danh sách phân toán và phân nhóm để lên xe vừa đọc xong thì chúng tôi mới có cơ hội xì xào khi trở vào thu xếp đồ đạc. Thật ra thì cũng chẳng có gì để thu xếp vì từ lúc bị hốt đi từ quận Nhứt, Đà Nẵng, cho tới hôm nay thì anh em tàn binh nhiều lắm là thêm được vài bộ domino làm từ bình ắc quy hay vài vật dụng cần thiết chế biến từ bất cứ thứ gì có thể gom góp được trong doanh trại vốn là hậu cứ của một Tiểu Đoàn Công Binh Kiến Tạo, mà vị Tiểu Đoàn Trưởng là chồng của một ca sĩ nhạc Twist kiêm nghệ sĩ sân khấu thời danh của thập niên 60.

Cũng như khi bị gom lần đầu, cả đám Molotova, xe hàng và xe tải đều căng bạt kín mít. Vẫn là cảnh hai tên nón cối non choẹt ôm súng đứng canh trong xe. Vẫn là câu căn dặn có tính cách doạt nạt thường lệ : “ …Ngồi trên sàn xe. Không được đứng lên vì bất cứ l‎‎y’ do gì…” . Và vẫn là sự suy đoán dựa theo hướng xe lăn bánh để thầm hình dung đoạn đường sẽ dẫn về đâu. Từ sân cờ ra khỏi cổng, nếu rẻ trái thì vào phố Hội An hay ra biển, còn quẹo phải thì ra Điện Bàn…Quẹo phải! Vậy là đoàn xe đang trở ra phía Vĩnh Điện ngoài quốc lộ 1… Lại quẹo phải! Vậy là đòan xe đang ngược bắc, hướng về Đà Nẵng, lúc nhanh, lúc chậm. Khi thì nghe tiếng gió ào ạt và tiếng bánh xe nghiến trên đường, lúc thì có nhiều tiếng máy nổ của xe cộ các loại, cùng với âm thanh hỗn tạp của những vùng đông dân cư. Khoảng hơn một tiếng sau thì xe quẹo trái, chạy thật chậm trên một đoạn đường dằn xóc rồi dừng hẳn lại. Đến nơi rồi!

Vừa bước xuống xe, và nhìn quanh một vòng thì đã có tiếng xì xào của vài bạn tù gốc Quảng Nam. Thì ra đây là Trung Tâm Huấn Luyện Hòa Cầm, nơi đào tạo tân binh cho Sư Đoàn 3 BB và cũng là nơi các đơn vị thuộc Tiểu Khu Quảng Nam cũng như Biệt Động Quân chúng tôi thỉnh thoảng về “ hấp “ , tái bổ sung, hay dưỡng quân ngắn hạn. Sau một màn điểm danh, và phổ biến những điều ngăn cấm tù binh liên quan tới việc không được tự tiện rời chỗ ở và đi lòng vòng trong doanh trại, chúng tôi được quản giáo chia thành từng nhóm 50 người rồi giao cho vệ binh dẫn về các “ sam “  ( salle ) để chính thức trở thành tù nhân ngay trong quân trường mới hơn một tháng trước còn là chiếc nôi nuôi dưỡng sức sống của các đơn vị cơ hữu trong vùng.

Dù đang cuối xuân nhưng nắng đủ nóng để mọi người đổ mồ hôi như tắm. Một số ra ngoài tìm bóng cây để hóng mát thì bị đám nón cối đuổi trở vào bên trong “ sam “  với lý do “…ăn mặc hở hang, kém văn hóa! “  Nhìn lại thì ai nấy đều chỉ có quần đùi trên người và điều này làm cho mấy em nón tai bèo mắc cỡ, hay tỏ vẽ khó chịu, hoặc trừng trợn khi đi ngang qua “ Sam “ của chúng tôi. Không có thông báo rõ rệt về chuyện dời trại ban sáng, nhưng đã có lời rỉ tai về một cuộc tập trung toàn bộ sĩ quan của QLVNCH thuộc vùng Quảng Nam về một chỗ để kiểm kê số lượng và dễ bề kiểm soát, hay còn để thực hiện một việc gì đó rất quan trọng.

– Biết đâu sẽ có trao trả tù binh nay mai!? Không lẽ trong đó không phản công  hoặc “ mấy ổng “ bỏ rơi mình hay sao?

– Phải đó! Chắc là phải có một giải pháp cho tù binh của hai bên. Nếu không thì cần gì tụi nó phải đưa tụi mình về đây cho mất công?!

– Cả tháng nay không có chút tin tức gì từ thế giới bên ngoài. Không có radio, không tiếp xúc được với ai. Mình bị bưng bít mọi chuyện. Chỉ toàn là ba mớ tuyên truyền của tụi nó không hà!

Những lời đoán già đoán non cứ thế mà trao qua đổi lại cả ngày. Nét lo âu hiện rõ trên gương mặt của mỗi người. Mặc dù mức độ căng thẳng không đến đỗi như lần bị lừa  “…tập trung đi học tập cải tạo từ 7 giờ đến 9 giờ sáng …” như trước đây, nhưng mỗi lần có thay đổi trong sinh hoạt của tù binh là lại thấy xốn xang và buồn bực trong lòng. Đã vậy, nơi tập trung vừa qua và lần này đều là những doanh trại cũ, những nơi đã từng in màu áo trận, từng vang rền tiến chân đưa theo nhịp quân hành. Bảo sao không bùi ngùi, không rấm rức, không buồn đau khi mà số phận nghiệt ngã đã đưa mọi người lọt vào trong quyền sinh sát của lũ ngông cuồng đang say men chiến thắng!

Tiếng lách cách của những quân cờ chơi trong thinh lặng hay chơi để mà chơi, chơi để không bắt trí óc rã rời phải cố công suy niệm. Tiếng thì thầm của từng nhóm bạn, tiếng thở dài lẻ loi của ai đó trong góc tối hầu như ngưng bặt cùng một lúc khi những ngọn đèn vàng trong “ sam “ vụt tắt. Đêm dần trôi trong lặng lẽ. Đêm mờ bóng vực, trầm lắng đến tận cùng tâm thức. Dưới khe hở của lớp tường lợp tôle là vòm sáng mờ mờ, nhợt nhạt từ xa dọi vào làm khung cảnh trong “ sam “ càng trở nên u tịch. Tiếng rù rì của những câu chuyện trao đổi cũng đã im bặt từ lâu. Không gian thinh lắng như trầm tích. Ngoài tiếng động của những bước chân tuần tiểu  kèm theo lời xì xào của vệ binh, thì tiếng động còn lại là chỉ là  những tiếng trở mình sột soạt trên nền chiếu của ai đó trong góc tối.  Một ngày đã qua. Một ngày lê thê, vô cảm, đã trôi vào quá khứ của thời gian suốt từ lúc Đà Nẵng rơi vào tay nón cối. Lại là một đêm dài của tương lai vô định và của số phận đã bị đóng khung.

                                      ooooOoooo

Đêm mất ngủ khiến nhiều người còn nằm co quắp dưới nền xi măng mặc dù bên ngoài nắng đã lên cao. Đa số đã thức dậy từ lâu và đang nằm, ngồi thả khói trong tư lự. Lại là những suy tư miên man về thân phận tàn binh. Lại những âu lo và phiền muộn đủ làm khô khốc cả người. Không ai muốn đối diện thực tại não nề. Mọi thứ đều như trong giấc mơ. Và nỗi buồn thì cứ chất ngất trong cùng tận đáy lòng nên hiếm hoi lắm mới thấy tàn binh nở một nụ cười- cho dù chỉ là một nụ cường gượng gạo- để tự dối lòng và tạm quên thực tại. Cách lãng quên đời tốt nhứt là …hút thuốc! Cũng may là khi còn trong Hội An, ngày nào chúng tôi cũng có cơ hội ném tiền qua hàng rào để được người dân thảy lại những bao thuốc Quân Tiếp Vụ nên bây giờ mới có thể “ Mang cơn sầu đời thả thành sương mộng Vàng tay khô trên từng nhánh lụy phiền “.

Cả buổi sáng không có tên nón cối nào đến “ làm phiền “  chúng tôi. Hình như cảnh vệ cũng lơ là trong việc ngăn chận tù tàn binh ở các “ sam “ gần nhau chạy qua, chạy lại, xì xào trao đổi tin tức. Cũng chẳng có gì để nói cho nhau nghe ngoài những câu chuyện bâng quơ về mọi thứ trên đời, trong đó niềm hy vọng – dù không mấy lạc quan- về một ngày được trả tự do là đề tài được nhắc đi, nhắc lại nhiều nhứt. Và cứ thế, buổi sáng rồi buổi trưa uể oải trôi qua trong một ngày nắng thật đẹp. Lại giải khuây và giết thì giờ quanh mấy bàn cờ tướng hoặc domino, lại bó gối ngồi nhìn trời, ngắm đất trong thinh lặng. Không nói ra nhưng ai cũng biết người bạn đồng cảnh đang lo gì, nghĩ gì sau bộ mặt trầm tư qua làn khói thuốc. Cá nằm trong rọ, thú nhốt trong chuồng, người trong tù ngục, chắc chắn đều có chung một khát vọng: Tự Do. Nhưng tự do của tàn binh bây giờ cũng có nghĩa là bước vào một nhà tù lớn hơn vì ngòai kia người dân cũng đang đối diện với nghịch cảnh đổi đời và cũng đang oằn mình vì mớ gông cùm cộng sản đang lần hồi siết chặc. Đường nào cũng bí rị, cũng tối đen. Đáng buồn thay cho thân phận tàn binh!

Lại có lệnh tập trung ngay trước cửa “ sam “ . Bước ra ngoài thì đã thấy các nơi khác cũng vậy. Nếu không có đám nón cối ( lại nón cối! ) ôm súng đứng giăng hàng như thể đang dàn chào, thì quang cảnh không khác gì một buổi tập họp của các tân binh trong quân trường trước đây. Nhưng lần này lại có không khí nghiêm trọng hẳn ra vì không chỉ có đám bộ đội đứng trước sân tập họp, mà phía sau “ sam “, ngay sát vòng rào lưới mắt cáo có giăng kẽm gai, cũng có bóng dáng của những cây AK chĩa ngang hông. Lại một phen hồi họp và lo lắng. Lại có chuyện gì nữa đây!?

Như đoán biết sự bồn chồn của mọi người, tên quản giáo chậm rãi đi tới đi lui trên thềm xi măng, tay giơ cao đếm số người đang đứng thẳng hàng trước mặt mình rồi mới sửa bộ, tằng hắng vài tiếng, sau đó mới trịnh trọng tuyên bố:

Báo cáo cho các anh rõ: đúng 12 giờ trưa hôm nay, Sàigòn đã hoàn toàn được giải phóng! Bộ đội đã vào dinh Độc Lập và Tổng Thống của các anh đã đầu hàng quân cách mạng vô điều kiện…

Tên quản giáo ngừng lại giây lát như thể đang thăm dò phản ứng của chúng tôi. Những cái đầu vốn đã cúi nhìn xuống đất nay lại càng gập sâu hơn nữa. Trời đang xế trưa. Nắng gay gắt như đang hừng hực lửa mà lòng chợt lạnh đến rùng mình. Thật vậy sao?! Mơ chăng?! Không thể nào! Chỉ mới đúng một tháng mà đã mất cả một miền nam vào tay giặc. Không! Mất cả quốc gia mới đúng!

Còn đang bàng hoàng thì câu nói kế tiếp của tên quản giáo vang lên như một lời hù dọa để chính thức phủ đầu những kẻ đang thật sự sa cơ:

Bây giờ thì đất nước đã hoàn toàn được giải phóng rồi. Hòa bình rồi! Các anh cũng đừng mơ tưởng tới việc trao trả tù binh. Hãy chăm lo học tập cải tạo tốt thì may ra còn được cho về đoàn tụ với gia đình. Cách mạng vốn rộng lượng khoan hồng nhưng những kẻ phản động nào còn cố tình chống đối cách mạng thì sẽ bị trừng trị thẳng tay…” Như để chứng minh cho sự thât lịch sử, tên quản giáo giơ cao  chiếc radio, mở âm lượng tối đa để chúng tôi nghe những gì đang được tiếp vận từ đài phát thanh Sàigòn. Câu mở đầu và giọng xướng ngôn quen thuộc đã không còn. Thay vào đó là những bài hát cộng đồng, những bản nhạc sắt máu mang âm hưởng của nhạc Tàu, và giọng “ sốt rét “ nhưng cũng không kém phần đanh thép của ai đó cứ nhai đi nhai lại những khẩu hiệu an dân và đầy tính chất tuyên truyền cho chế độ.

  Tên quản giáo cứ thế mà  gằn giọng răn đe này nọ, hắn còn nói nhiều chuyện khác nữa nhưng không ai còn để tâm đến làm gì. Cả tháng nay ai nấy cố nuôi hy vọng để bây giờ thất vọng não nề. Nỗi đau buồn không bút mực nào diễn đạt cho đúng với những gì chúng tôi đang cảm nhận trong lòng. Mọi người không ai nhìn ai. Tất cả lẵng lặng trở vào trong “ Sam ”. Bước chân nặng nề như treo đá. Lòng quặn thắt từng hồi. Giữa trưa mà tưởng như đang bước vào bóng tối. Mặt trời “ đen “ hơn bao giờ hết, đen hơn tất cả những gì người nhạc sĩ thời danh nào đó đã ta thán trong bài hát của ông ta mấy năm trước đây. Lịch sử Việt Nam đã vừa thay trang mới. Miền nam tự do đã không còn tồn tại trên chính trường thế giới. Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử! Và chúng tôi, những chiến sĩ của tiền đồn chống cộng hôm qua, cũng vừa mới được kẻ chiến thắng chính thức công bố số phận của mình: số phận nghiệt ngã của những tù binh không có ngày trao trả. Lúc đó là 2 giờ chiều, ngày thứ Tư 30 tháng 4 năm 1975! Cũng là ngày định mệnh của cả một Dân Tộc!

HUY VĂN

Một lần đi là một lần vĩnh biệt, PHAN HẠNH (Toronto)

Một Lần Đi Là Một Lần Vĩnh Biệt

Phan Hạnh (Toronto)

Viết cho những người một ra đi thề không trở lại

Khởi đi từ một ngày 30-4-1975 đau thương… 

 Những năm tháng đầu của cuộc đời tị nạn, chúng ta không ngừng những nỗ lực tích cực dấn thân đấu tranh chống bạo quyền Hà Nội xâm lăng cưỡng chiếm miền Nam. Ngoài các sinh      hoạt chính trị như  tổ chức biểu tình chống Việt Cộng chà đạp nhân quyền, vận động với chính quyền sở tại để được tổ chức lễ thượng kỳ hàng năm trước tòa đô chính của thành phố, chúng ta còn tổ chức các buổi trình diễn văn nghệ giữ lửa. Các ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh, Khánh Ly, Phạm Duy được mời đến thành phố này để trình bày những sáng tác ca khúc mới, giữ cho ngọn lửa đấu tranh đừng nguội lạnh trong tim người tị nạn đang phải chật vật với cuộc sống đầy khó khăn nơi xứ lạ.

Nguyệt Ánh với Một Lần ĐiAnh Vẫn Mơ Một Ngày Về rót giọt đắng cay cho thân phận mất nước và căm hận giặc Cộng đã cướp mất quê hương thân yêu.

 

“Saigon ơi ta có ngờ đâu rằng
Một lần đi là một lần vĩnh biệt
Một lần đi là mòn lối quay về
Một lần đi là mãi mãi thương đau.”
 

 

Tháng 11 năm 1975, Nam Lộc vừa rời khỏi trại tị nạn Pendleton, với cõi lòng còn tê điếng niềm đau ly hương đã xuất thần sáng tác bài Saigon Ơi Vĩnh Biệt; và nó đã trở thành một nhạc phẩm bất hủ mãi cho đến ngày nay. Khánh Ly cất tiếng hát:

“Saigon ơi! Tôi xin hứa rằng tôi trở về
Người tình ơi! Anh xin giữ trọn mãi lời thề
Dù thời gian có là một thoáng đam mê
Phố phường vạn ánh sao đêm
Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên”

Lúc bấy giờ, với niềm đau còn nóng hổi trong lòng ngực, hầu như bất cứ người tị nạn nào cũng xem đó như chính là lời từ cửa miệng mình thốt ra. Nam Lộc thốt ra lời giản dị đó bằng giai điệu nhạc khiến cho nó trở nên bi thương xúc động hơn. Bài Người Di Tản Buồn Nam Lộc viết sau đó cũng trở thành một kinh tụng gối đầu giường của nhiều người tị nạn ở hải ngoại hay tị nạn trên chính quê hương Việt Nam.

“Cho tôi xin một lần chào
Chào bao nhiêu người đã khuất
Xin cho tôi một mộ phần
Bên ngàn chiến hữu của tôi.”
 

Ba năm sau, Việt Dzũng tung ra nhạc phẩm Một Chút Quà Cho Quê Hương đánh thêm một cú vang dội thứ hai trong trái tim thổn thức của cộng đồng người Việt tị nạn. Nước mắt thành dòng trên má kẻ lưu vong và cũng lặng lẽ tuôn bên chiếc radio nghe lén hằng đêm ở quê nhà. Giọng ca khàn đục đầy ma lực của Khánh Ly hát lần đầu tiên năm sau đó thiết tha quá và chất chứa đầy những nỗi xót xa.

“Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá
Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con tim gan quá đọa đầy…”
 

Cũng trong thời gian này, Phạm Duy từ Fort Walton Beach, Florida dọn về Thị Trấn Giữa Đàng (Midway City) giữa lòng thủ đô Little Saigon và viết ra Tị Nạn Ca gồm những ca khúc tuyên ngôn như Tháng Tư Đen, Quê Hương Ruồng Bỏ Giống Nòi Khinh, 54 Cha Bỏ Quê 75 Con Bỏ Nước, v.v. bi hùng thiết tha, tưởng chừng như có thể ôm mối hận Cộng sản mãi mãi nghìn đời. Tháng Tư Đen. Xin cúi đầu tưởng niệm. Khóc quê hương đang rên siết dưới ách giặc cộng bạo cường. Thề không quên ngày quốc hận.

“Này người Việt ở trên thế giới!
Nào cùng nhau họp chung khí giới
Cất tiếng đòi tự do cho triệu đồng bào ta.
Hãy đoàn kết lại!”
 

Cuối năm 1977, khi người tị nạn trong đợt di tản đầu tiên cảm thấy đường về lại quê hương còn quá xa xăm, bài thơ Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển của Du Tử Lê được phổ biến và được hưởng ứng nồng nhiệt. Bài thơ đi thẳng vào tim gan người nghe, gây xúc động chất ngất, nhất là những người có tuổi hay suy tưởng về cái chết. Cuộc sống tự do, dư thừa cơm áo, nhà cao cửa rộng, xe ngựa thênh thang, tất cả những thứ ấy không làm cho người ta vơi được nỗi buồn xa quê hương. Trong khi đó, nhà cầm quyền cộng sản trong nước vẫn còn loay quay lúng túng trong cuộc quản trị một đất nước bỗng chốc tăng đôi lãnh thổ và dân số.

Quản trị lãnh thổ và tài sản quốc gia đồ sộ đã khó, quản trị mấy chục triệu dân miền Nam đã có hơn hai mươi năm phát triển tự do dân chủ và tiến bộ lại càng khó hơn. Và cộng sản đã chọn con đường dùng bạo lực đàn áp và triệt tiêu ý chí người thua trận. Cả đất nước đắm chìm trong lưới sắt tối tăm cô lập với thế giới bên ngoài. Người ở lại tuyệt vọng dõi mắt trông chờ người thân đã ra đi. Người ra đi cũng tuyệt vọng tưởng chừng như không bao giờ có ngày trở về.

Trong bối cảnh đó và thời điểm đó, người ta nghe bài thơ KTCHĐTRB trong thổn thức ngậm ngùi. Khi được Ngô Văn Tín phổ thành nhạc, bài thơ như có thêm mười thần công lực chắp cánh bay vút và xoáy thẳng vào tâm thức người nghe vốn vẫn chưa hết bàng hoàng bởi cơn địa chấn Tháng Tư Đen.

Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Đời lưu vong không cả một ngôi mồ
Vùi đất lạ thịt xương e khó rã
Hồn không đi sao trở lại quê nhà.
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi
Cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối
Biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi.
Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
Đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.
 
 

Nhưng đời lưu vong thời đổi mới trở thành ra chưa tận tuyệt với linh hồn. rồi Cộng sản thay đổi đường lối quản trị đất nước để tận dụng và khai thác tối đa nguồn tài lực tiềm ẩn trong nước và dồi dào của tập thể người Việt ngoài nước. Nhà cầm quyền Hà Nội mở rộng vòng tay chào đón Việt kiều mang về cho họ nguồn ngoại tệ lớn lao. Nỗi nhớ nhà của những người con tha hương lớn hơn mọi lý tưởng. Người ra đi trở về, chấp nhận mọi điều trái tai chướng mắt, chấp nhận tuân hành theo luật không minh bạch của cộng sản. Người tị nạn với lòng dạ xốn xang thổn thức những năm đầu nay lần lượt vui mừng hớn hở trở về thăm lại quê hương, bỗng nhận thấy bài hát ấy không còn “ấn tượng” nữa.
Và họ lục đục trở về, nhiều lắm, trong số đó có cả các tác giả của Tháng Tư Đen, của KTCHĐTRB. Thôi, chúng ta trách móc họ cũng chẳng ích gì. Sống trong đất nước tự do, chúng ta cũng hãy để yên cho họ hành xử quyền tự do của họ. Chuyện của họ làm đã có dư luận phán xét. Nhưng niềm mến phục của chúng ta dành cho họ không còn như xưa, có khi còn được thay thế bằng sự khinh bỉ.

Chữ chúng ta được dùng ở đây là những người Việt tị nạn thầm lặng trung thành và thủy chung với lý tưởng và lời thề không sống chung với cộng sản. Khi họ thốt lên câu Saigon ơi vĩnh biệt, khi họ tự nhận mình là người di tản buồn, khi họ đã gọi ngày mất nước là ngày Tháng Tư Đen, khi họ ước nguyện khi tôi chết hãy đem tôi ra biển, họ cương quyết sẽ giữ lời bằng danh dự. Họ thề sống ngoài quê hương ngày nào quê hương còn cộng sản. Một khi đã chết, họ ước ao thân xác hoặc tro cốt được trở về đất mẹ, được chôn cất bên cạnh phần mộ người thân hay đồng đội, được hưởng nghi lễ tống táng như một tử sĩ đền xong nợ nước.

Khi Tôi Chết Đừng Đưa Tôi Ra Biển (của cựu Trung Tá TQLC Nguyễn Văn Phán)

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh
Để đêm nghe vang dội khúc quân hành
Ôi ! Lính chiến một thời kiêu hãnh quá.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Ben-Hét, Đắc-Tô
Nơi bạn bè tôi, xây mộng sông hồ
Nguyện trấn giữ dãy Trường Sơn yêu quý.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Bình Giả, Chiến Khu “D”
Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề
Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi
Đêm U Minh, nghe tiếng thét vang trời
Mừng chiến thắng để dâng về tổ quốc.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Trả tôi về với dân tộc Việt Nam
Gói thân tôi ba sọc đỏ màu vàng
Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.

 

Và chúng ta, những người con của tổ quốc không cờ máu, cũng thà chết lưu vong còn hơn là nuốt nhục trở về nhìn quê hương thân yêu đang bị tàn phá bởi kẻ cướp cộng sản gian manh quỉ quyệt. Từ ba mươi lăm năm nay, chúng ta vững lòng âm thầm theo đuổi lý tưởng một cách kiên trì không suy suyển. Chúng ta không về vì chúng ta không muốn chối bỏ căn cước tị nạn chính trị, lý do nguyên thủy của sự bỏ nước ra đi. Về làm gì để chứng kiến cảnh nhân phẩm bị chà đạp, bất công xã hội đầy dẫy tràn lan, thiểu số thống trị cười cợt trên nỗi lầm than của đại chúng. Về làm gì để bị đối xử thiếu văn minh và lễ độ. Về làm gì để bị làm đối tượng của rình rập theo dõi, tống tiền và âm mưu ám hại. Về làm gì khi sự an toàn bản thân không được bảo vệ bởi luật pháp. Về làm gì để nhìn thấy lá cờ máu ngự trị khắp quê hương, hình tượng kẻ tội đồ ngang nhiên trưng bày chung với các đấng chí tôn và anh hùng dân tộc.  Chúng ta tự hào và hãnh diện với thái độ và sự lựa chọn của chúng ta. Đã từng nghe lời thề vang vang “Quì xuống các khóa sinh! Đứng dậy các tân sĩ quan!” tại vũ đình trường trong buổi lễ mãn khóa ngày nào, đã từng đội trên đầu chiếc mũ kết với huy hiệu “Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm”, đã từng bị cộng sản bức hại trả thù dã man cá nhân và gia đình chúng ta, đã từng chịu cảnh nước mất nhà tan, chúng ta làm sao nuốt nhục để trở về cơ chứ?

Chúng không ngừng tìm đủ mọi cách bóc lột đàn áp người dân trong nước và lợi dụng khúc ruột ngàn dặm mang chất xám và tài nguyên về nuôi béo chúng. Ít ra chúng ta không để bị phĩnh gạt một lần nữa và không tủi thẹn với chính lương tâm của mình. Một lần đi là một lần vĩnh biệt, trừ phi cộng sản không còn trên quê hương.

Một đồng đội thuở xưa vừa liên lạc
Nhắc lại ngày trận mạc có bên nhau
Hỏi tôi biết có ngày nao
Tôi về thăm lại chiến hào nắng mưa?
Bạn tôi nhắc quê hương ngày tháng cũ
Kỷ niệm xưa ấp ủ vẫn chưa nhòa
Quê hương nào có đâu xa
Quê hương ngay ở hồn ta dạt dào.       
Xa quê hương đâu phải là cách trở
Nói làm chi chuyện ở với chuyện về
Không về không phải bội thề
Không về nhưng vẫn một bề yêu quê.
Thôi bạn nhé quê hương ta tìm lại
Hồi tưởng hoài cho hết kiếp nhân sinh
Không về đâu phải vô tình
Cần chi ai biết chỉ mình ta hay.

Phan Hạnh, Toronto.

Chiếc áo phong sương tình anh nặng, Trường Sơn LÊ XUÂN NHỊ

Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng

Thân tặng các anh em Lôi Hổ và Lực Lượng Đặc Biệt…

Truyện ngắn, Trường Sơn Lê Xuân Nhị

 

Câu chuyện ngắn sau đây, tuy dựa trên những sự kiện của lịch sử, nhưng, ngoài Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tất cả các nhân vật khác và chi tiết khác đều là một sản phẩm của tưởng tượng. Nếu có một sự trùng hợp ngẫu nhiên nào, đó là hoàn toàn ngoài ý muốn của tác giả.

 Trân trọng.

 

 

Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II và Quân Khu II rút điếu thuốc lá 3 con 5 ra khỏi cặp môi đen sạm, phà khói vào tấm bàn đồ trước mặt. Như thường lệ, mỗi khi có gì cần phải suy nghĩ, mặt ông tướng Phú nhăn lại một cách thảm hại…

Trước mặt ông ta là tấm bản đồ tình báo tối mật với những tin tức mới nhất của phòng II quân đoàn vừa trình lên cho ông, chi chít những hình vuông, tròn, tam giác và những mũi tên dấu xanh dấu đỏ vẻ bằng bút chì mở. Màu Xanh là biểu hiệu của phe mình, còn màu Đỏ là Việt Cộng. Đứng bên phải ông là ông là đại tá Vân, Tham mưu trưởng quân đoàn II. Bên trái ông là đại tá Phùng, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn III Xung Kích Lực Lựơng Đặc Biệt. Bên cạnh ông đại tá Phùng là Trung Tá Khiếu, trưởng phòng II của quân đoàn, “tác giả” của tấm bản đồ bí mật.

Tất cả các cặp mắt đều đổ dồn vào cái hai đường gạch đỏ kẻ bằng bút chì mỡ rất đậm nét bắt đầu từ một mép ngoài bản đồ, phía bên kia của biên giới Việt Nam, trong khu cao nguyên Boleven của đất Lào. Xuất phát từ đây, một con đường bút mỡ đỏ bò ngoằn ngoèo, chạy xuống phía Bắc của Daksut rồi tẻ ra làm hai nhánh. Một nhánh đi xuống phía Bắc của Dakto, còn nhánh kia rẻ phải một chút, bò qua Thanh An, Thuần Mẫn và chấm dứt ở Băng Đôn, một quận lỵ nằm ở phía Bắc thành phố Ban Mê Thuột khoảng 50 cây số đường chim bay.

Con đường bút đỏ thứ hai chạy xuôi về phía Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh ở bên kia biên giới rồi bất ngờ rẻ vào mật khu Bù Gia Mập. Tại đây con đường tẽ ra làm hai, một đi ngược lên phía bắc, xuyên qua quận lỵ Đức Lập rồi tiến về phía Nam Ban Mê Thuột, đường kia đi xa hơn lên phía Đông Bắc, xuyên qua Quảng Nhiêu và ngừng lại ở phía Tây Ban Mê Thuột.

Ở cuối con đường thứ nhất, có một hình vuông có “nhốt” một ngôi sao, dấu hiệu của sư đoàn bộ binh và con số 968. Ở cuối con đường thứ hai thì có tới ba hình vuông nhốt ba ngôi sao với những con số 316, 10 và 3…

Tướng Phú có vẻ không khoái những cái ngôi sao này nên mặt ông nhăn lại một cách khổ sở. Thỉnh thoảng, ông ho lên sù sụ. Bốn người đứng yên, nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ một lúc, không ai nói với ai một lời nào. Cuối cùng, tướng Phú cầm cây gậy chỉ huy gõ nhẹ nhẹ vào cái con đường chỉ đỏ thứ hai trên tấm bản đồ:

-Pourquois? Ban Mê Thuột… Ban Mê Thuột… Merd… có lẽ nào chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột? Tôi biết tụi nó đang chuẩn bị tấn công mùa khô nhưng tại sao lại đánh Ban Mê Thuột? Qu’est ce que la raison… Merd…

Tướng Phú ít khi chửi thề, trừ những khi gặp những vấn đề gì quá rắc rối. Và ông không chửi tiếng Việt mà bằng tiếng Pháp. Tiếng “Merd” là ngôn ngữ nặng nhất của ông tướng.

Đại Tá Phùng và Trung Tá Khiếu liếc nhìn nhau trao đổi một cái nhìn bí mật. Trung Tá Khiếu tính nói gì đó nhưng tướng Phú đưa tay ngăn lại, rồi tướng Phú lại… nhăn mặt nói tiếp:

-Merd, không khéo là mình bị lừa. Tôi nghi là chúng nó muốn làm cho mình rối lên thôi… Chúng nó chỉ muốn kéo quân về đó để làm nghi binh. Coi chừng Ban Mê Thuột chỉ là diện, còn Pleiku mới thực là điểm. Dĩ nhiên Ban Mê Thuột dễ đánh hơn, nhưng, đánh Ban Mê Thuột thì chúng nó được lợi gì? Chỉ toàn cà phê không thôi chứ có mẹ gì… Merd…

Không có ai có thể trả lời nổi câu hỏi của tướng Phú. Phải, đánh Ban Mê Thuột thì chúng nó được lợi gì?

Tướng Phú xoay người ngồi xuống chiếc ghế tư lệnh rất đồ sộ bằng da cọp. Chiếc ghế đó là món quà tặng đặc biệt của ông Tư Lệnh Sư Đoàn 23 năm rồi. Đám Sĩ Quan liền đứng vây chung quanh bàn giấy ông. Ông dụi điếu thuốc, lý luận tiếp:

-Tôi nghĩ chúng nó chỉ đặt nghi binh để chia lực lượng của quân Khu II mình ra thôi. Cứ theo dõi những trận đánh mấy tháng gần đây, tôi thấy chiến dịch mùa khô năm nay chúng nó sẽ đánh như thế này: Trước hết, về phía Tây, chúng nó sẽ cắt quốc lộ 19 để chặt con đường tiếp viện duy nhất của mình với miền duyên hải và hải cảng Qui Nhơn. Đồng thời ở đây, chúng nó sẽ làm mọi cách để làm tê liệt Phi trường Phù Cát… Phía Bắc, Kon Tum sẽ bị đánh. Phía Nam, chúng sẽ cắt quốc lộ 14 nối liền với Ban Mê Thuột. Cũng có thể, một vài quận lỵ nhỏ ở đây sẽ bị tấn công như Buôn Hô, Thuần Mẫn v.v… Nếu chúng nó thực hiện được chuyện này mà mình không chia quân ra giữ thì Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn sẽ bị vây hãm. Còn nếu mình chia quân để tăng cường Ban Mê Thuột thì bộ tư lệnh sẽ bị tràn ngập trong vòng một đêm…

Nói đến đó đột nhiên Tướng Phú đưa mắt nhìn ông trung tá Khiếu, ngừng một chút rồi lại nói tiếp. Hình như cái chữ Ban Mê Thuột cứ trở về ám ảnh lấy ông:

-Tuy nhiên, nếu chúng nó xuất kỳ bất ý đánh Ban Mê Thuột, thì tôi thấy thành phố này khó mà đỡ nổi. Khó lắm, trừ phi mình có tiếp viện. Nhưng, chuyện… tận cùng, nếu mất Ban Mê Thuột, mình còn có thể gởi quân xuống lấy lại được. Còn để mất Pleiku là cả cái quân đoàn II này coi như mất. Anh Khiếu này, lúc nãy anh tính nói gì?

-Trình thiếu tướng, phòng II chúng tôi có thêm tin tức là một trung đoàn xe tăng và một trung đoàn cao xạ nặng cũng đã xuất hiện ở khu Bù Gia Mập.

-Như vậy thì chung quanh Ban Mê Thuột có tới 4 sư đoàn chính qui Bắc Việt và 1 trung đoàn cao xạ và 1 trung đoàn xe tăng?

-Thưa Thiếu Tướng, đúng vậy nhưng tôi chưa vẽ trên bản đồ vì chưa kiểm chứng được.

-Đó là chưa nói tới hai trung đoàn 95A và 95B vẫn thường xuyên quấy nhiễu vùng Kontum?

-Thưa thiếu tướng đúng như vậy.

Tướng Phú xoay chiếc ghế tư lệnh, nhìn vào tấm bản đồ nơi có cái ngón tay của ông Trung Tá Khiếu đang chỉ. Bố khỉ, ngón tay đó lại nằm ở phía bắc của Ban Mê Thuột nữa.

Tướng Phú chau mày, thò tay móc điếu thuốc lá, châm lửa, trán nhăn lại…

Ông không nói ra nhưng tướng Phú xưa nay có cái tật không tin… người Việt Nam lắm, nhất là những tin tức tình báo. Tướng Phú là một vị tướng thuộc vào hạng khá của QLVNCH, nhưng suốt quãng đời quân ngũ của ông, ông chỉ làm việc với người Pháp và Mỹ. Xuất thân là một sĩ quan nhảy dù Pháp, làm việc với Pháp, ông tập được lối đánh giặc và suy luận theo lối Pháp. Sau Điện Biên Phủ, ông Phú vào Nam. Quân đội VNCH bấy giờ được Mỹ tái huấn luyện và trang bị nên trong các chức vụ đơn vị trưởng, chung quanh ông luôn luôn có cố vấn Mỹ. Tất cả mọi chuyện, từ quân xa cho đến yểm trợ cho đến tin tức tình báo, ông luôn luôn nhờ người Mỹ lo liệu. Đến khi ông về nắm Tư Lệnh Lực Lựơng Đặc Biệt thì cái bịnh “tin Mỹ” của ông lại càng trở nên nặng vì đơn vị này do Mỹ thành lập và yểm trợ 100 %. Khi ông ra nắm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, bệnh này vẫn không thuyên giảm vì nếu không có sự yểm trợ ồ ạt và táo bạo của không quân Mỹ thì cái sư đoàn ở vùng địa đầu giới tuyến này chắc đã bị tràn ngập nhiều lần rồi. Bây giờ, không còn tin tức tình báo của Mỹ, là một vị tư lệnh quân đoàn, tướng Phú cảm thấy trách nhiệm của mình nặng nề và khó khăn vô cùng.

Nhìn ông Trung Tá Khiếu, tướng Phú phải công nhận rằng đây là một sĩ quan trẻ, rất có tài và làm việc rất tận tâm nhưng ông vẫn cho rằng khả năng và kiến thức của một ông Trung tá trưởng Phòng II của Quân Đoàn vẫn chưa đủ để phán đoán hay nhận xét về những cuộc điều binh cấp sư đoàn hay quân đoàn. Chỉ có ông. Phải, chỉ có ông hoặc là những sĩ quan cấp tướng như ông mới đủ khả năng để lượng định.

Tướng Phú nhìn quanh một lượt rồi hỏi trống không:

-Bon, các anh em ở đây, có ai có ý kiến gì không? Đừng quên một chuyện là chúng nó cũng có thể đánh Quảng Đức. Về chiến lược, Quảng Đức càng dễ đánh hơn nữa vì ở gần Phước Long hơn, gần quân đoàn III, gần Sài Gòn hơn.

Không có tiếng trả lời…

Ngay lúc đó, như một kẻ nhô ra từ trong bóng tối, ông đại úy sĩ quan tùy viên xuất hiện bên cạnh tướng Phú như muốn làm dấu nhắc nhở một điều gì đó. Tướng Phú hiểu ý, nhìn đồng hồ tay rồi dụi tắt điếu thuốc, đưa mắt làm dấu cho người sĩ quan tùy viên chuẩn bị cái cặp táp rồi nói:

-Cám ơn các anh em đến tham dự buổi giải trình hàng tuần của phòng II. Không ngờ hôm nay lại có chuyện quan trọng như vậy…

Nghe vậy thì tất cả các ông sĩ quan cấp tá trong phòng liền đứng thành một hàng ngang trước mặt tướng Phú để chờ lệnh. Tướng Phú nhìn quanh một lượt. Người đầu tiên được ông tướng Phú để ý tới là trung tá Khiếu. Ông nhìn trung tá Khiếu nói:

-Cám ơn anh Khiếu đã cho tôi những tin tức vô cùng quý giá. Anh tiếp tục theo dõi, bám sát, ghi nhận và nếu có thêm tin tức gì thì anh cho tôi biết liền. Sur tout, anh đưa báo cáo và bản giải trình của anh cho phòng truyền tin để họ chuyển sang mật mã gởi về Tổng Tham Mưu và dinh Độc Lập gấp cho tôi nội trong ngày hôm nay.

-Nhận rõ, thưa Thiếu tướng.

-Bon. Anh Vân, anh đánh công điện mời tất các Tiểu khu trưởng của Quân đoàn II về họp tại Nha Trang trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Riêng hai ông Tiểu khu trưởng của Ban Mê Thuột và Quảng Đức, tôi muốn họ mang theo đầy đủ kế hoạch phòng thủ của tiểu khu họ. Tôi muốn tất cả các Tiểu khu trưởng phải có mặt trong buổi họp này.

-Trình thiếu tướng tôi nhận rõ.

Tướng Phú ngừng một chút. Người cuối cùng chưa nhận được lệnh lạc gì cả là đại tá Phùng, Chỉ huy trưởng chiến đoàn III xung kích Lôi Hổ.

-Anh Phùng…

Ông tướng Phú bỏ dở câu nói. Đại tá Phùng đứng thế nghiêm.

-Tôi nghe phòng Quân Cảnh và người ta than phiền mấy thằng lính của anh… ba gai, đánh lộn, phá quán tùm lum… Anh về coi lại chúng nó. Tôi sẽ không tha thứ những chuyện đó.

-Trình thiếu tướng tôi sẽ thi hành theo chỉ thị.

Tướng Phú lắc đầu:

-Chưa hết đâu…

Ông ta đứng lên, từ từ tiến tới tấm bản đồ ở phía sau lưng. Đại Tá Phùng thấy tim mình đập nhanh hơn.

Tướng Phú đứng yên ngắm cái bản đồ một lúc rồi đưa cây gậy chỉ huy chỉ vào một điểm phía bắc của quận Dakto, nơi một nhánh của con đường đỏ chấm dứt ở đó:

-Tôi muốn anh cho con cái anh nhảy vào đây cho tôi. Ít nhất là 2 toán. Tôi muốn tìm hiểu xem lực lượng của chúng nó ở đó có bao nhiêu quân? Bao nhiêu tăng? Nhà cửa và trang bị thế nào?

Đại tá Phùng ghi nhanh mấy cái tọa độ vào sổ tay rồi nói:

-Thưa thiếu tướng tôi nhận rõ.

-Còn nữa, chưa đã hết đâu…

Cái cây gậy chỉ huy của tướng Phú lại chỉ xuống cái chỗ tẻ hai của con đường bút đỏ thứ hai, trong khu Bùi Gia Mập. Ông gõ vào đấy mấy cái thật mạnh, giọng đanh lại:

-Đây là ổ tập trung quân an toàn nhất của tụi nó, anh cho 2 toán nữa nhảy xuống đây cho tôi. Ngay chỗ này này. Phải ráng làm sao bắt được vài thằng lính, nếu sĩ quan càng tốt của chúng nó đem về đây cho tôi. Đó là một bằng chứng xác đáng nhất về sự có mặt của chúng nó.

Đại Tá Phùng gật đầu:

-Nhận rõ, thưa thiếu tướng.

-Bon. Anh có 24 tiếng đồng hồ để chuẩn bị. Trễ lắm là tối mai, tôi muốn con cái anh phải nhảy xuống và có mặt ở vùng làm việc. Trong giai đoạn này, tôi chỉ muốn biết quân số cùng trang bị của chúng nó như thế nào thôi. Nhớ lấy điểm đó.

-Nhận rõ, thưa thiếu tướng.

Tướng Phú đội cái mũ lưỡi trai lên đầu, đeo giây súng vào người:

-Trung tá Khiếu!

-Thưa Thiếu tướng tôi nghe.

-Anh làm việc chung với ông đại tá Phùng, phối kiểm các tin tức tình báo của anh và tin của Lôi Hổ rồi làm cho tôi một tờ báo cáo. Đồng thời, làm việc đắc lực với Không quân, cho chụp càng nhiều không ảnh càng tốt. Tôi muốn anh chụp bất cứ cái gì mà anh có thể nghi ngờ. 3 ngày nữa, sau khi tôi đi họp ở Nha Trang về, tôi sẽ đọc báo cáo kế tiếp của anh.

-Tôi nhận rõ.

-Đại tá Văn!

-Tôi nghe.

-Anh cho mời 2 ông tư lệnh Sư đoàn, các ông Trung đoàn trưởng và Liên đoàn trưởng Biệt Động tối mai về họp tại đây lúc 18 giờ. Nhớ mời luôn ông tướng Nhân Không Quân và mấy ông Không đoàn trưởng qua luôn. Tôi có nhiều chuyện muốn bàn.

-Tôi nhận rõ.

Lúc này thì tướng Phú đã đứng ở cửa văn phòng mình. Ngoài sân, chiếc UH-1 có gắn bảng đỏ và hai ngôi sao bạc của tướng Phú bắt đầu quay máy. Hai người phi công đang bận rộn với mấy cái công tắc. Hai cánh quạt dài khẳng khiu đang chậm chạp liếm từng luồng gió một và từ từ tăng tốc độ…

-Ngoài ra có ai còn hỏi gì nữa không?

Không có tiếng trả lời.

-Bon, chào tất cả các anh.

-Tất cả… Nghiêmmm.

Đại tá tham mưu trưởng hô to và nghiêm trang dơ tay lên chào theo đúng thủ tục của quân đội. Tướng Phú gật đầu có vẻ hài lòng, dơ tay lên chào lại. Thì Đức Khổng Tử đã chẳng bảo là khi người nước nào còn biết được giữ được lễ nghĩa thì nước đó sẽ còn tồn tại được mà? Tướng Phú mỉm cười nhẹ nhàng khi nghĩ đến đó.

Ông bước từng bước một nhẹ nhàng ra khỏi phòng, tiến về phía chiếc phi cơ…

Lúc cánh quạt chiếc trực thăng tăng tốc độ để bốc máy bay lên, tướng Phú nhìn qua đám cuồng phong của bụi mù đất đỏ phía dưới con tàu và lại lẩm bẩm: “Ban Mê Thuột, Ban Mê Thuột… đất Buồn Muôn Thuở, xứ Bụi Mịt Trời…” Ông lẩm bẩm như vậy và mặt ông nhăn dúm lại một cách thảm hại…

* * *

Tại Ban mê Thuột, trong căn gác nhỏ nhưng sạch sẽ và tươm tất ở số 74 B đường Lý Thường Kiệt, người đàn ông mặc quần đùi nhà binh và áo thun trắng nằm nghiêng mình trên chiếc giường nhỏ đọc say mê cuốn truyện. Trên đầu giường có treo bộ đồ rằn ri, một cây súng lục, một con dao đi rừng. Chiếc áo rằn ri có huy hiệu con cọp ở ngực và cặp lon đại úy màu đen nơi cổ. Dưới giường là một đôi giày bốt đờ sô tuy cũ nhưng được đánh bóng cẩn thận.

Bên cạnh giường, trên chiếc ghế làm bằng gỗ thùng đạn, một người đàn bà xinh đẹp ngồi vòng tay trước ngực tư lự nhìn ra ngoài. Hai người vừa làm tình với nhau xong. Mặt người đàn bà vừa như giận dỗi và vừa như còn luyến tiếc hương vị của cuộc ân ái vừa qua…

Một lúc sau, người đàn ông xoay người hỏi:

-Em có đói bụng không Diễm?

Diễm lắc đầu không nói gì.

-Em muốn đi ăn không?

Diễm cay đắng:

-Đi ăn với người đã có vợ, thiên hạ cười chết.

Người đàn ông vất cuốn sách xuống giường, nhăn mặt có dáng mệt mỏi và hơi khó chịu. Tuy vậy, giọng nói của anh ta rất dịu dàng:

-Em cứ đay nghiến anh mãi.

Rồi anh ta ngồi dậy, thò tay với lấy gói thuốc Capstan trong túi áo, châm lửa mồi thuốc rồi uể oải đứng lên.

Người đàn ông đã đứng sau lưng Diễm, vòng hai tay ôm lấy nàng. Diễm tính hất tay anh chàng ta ra nhưng nghĩ sao lại để yên. Nàng ngã người vào bộ ngực rắn chắc của người đàn ông, nói như qua hơi thở:

-Em khổ lắm anh Huân ơi, anh có biết không?

Huân gỡ điếu thuốc ra khỏi môi, hôn nhẹ vào má nàng:

-Anh hiểu. Anh xin lỗi em.

-Bây giờ anh tính sao đây?

Huân lắc đầu, bất lực:

-Anh ước muốn nếu mình có một quyền năng gì đó…

Vừa nói đến đó, Diễm gỡ tay anh ra rồi bất ngờ tát đến bốp một cái vào mặt Huân:

-Đồ đểu, đồ khốn nạn…

Rồi Diễm ôm mặt bật khóc. Huân đưa tay lên xoa mặt, nhưng không hề biểu lộ một sự giận dữ.

-Anh cút đi, anh đừng động đến tôi… Anh là đồ khốn nạn…

Huân ngồi xuống giường trở lại. Mặt u buồn. Đấu điếu thuốc lại lóe lên liên tiếp. Bên ngoài, trời đã chạng vạng tối.

-Tại sao hôm đó anh lại tán tôi?

Huân cảm thấy tim mình đau nhói, không trả lời nỗi. Ừ thì mình bậy thật, ai bảo mình tán tỉnh nàng làm chi để đến ra nông nỗi này? Nhưng mình là lính xa nhà, gặp con gái đẹp mà không tán thì biết làm gì? Chẳng lẽ chỉ đứng xa mà nhìn rồi tối về nhà thầm yêu trộm nhớ như hồi còn đi học ở trung học?

Hai người quen nhau cách đây gần năm. Hồi ấy Huân còn đeo lon Trung úy, từ Bộ Chỉ Huy ở Sài Gòn vừa được đổi lên Ban Mê Thuột. Buổi chiều đầu tiên nhậu ở căn cứ say túy lúy. Buổi chiều thứ hai, chàng phóng xe díp ra phố để mua vài thứ lặt vặt và cũng để rửa mắt, coi thử thành phố Ban Mê Thuột tròn méo thế nào, dân tình ra sao. Huân thấy thành phố dễ thương lắm. Và dân Ban Mê Thuột hình như có một vẻ đẹp đặc biệt.

Trong một tiệm tạp hóa, chàng chỉ cây bút máy Pilot trong tủ kính hỏi cô hàng trẻ tuổi đang ngồi mơ màng, không biết đang mơ mộng hay suy nghĩ chuyện gì:

-Xin phép cô, nếu được, cô làm ơn cho tôi xem cây viết pilot.

Đáng lẽ, Huân sẽ chẳng bao giờ thèm để ý đến nàng nếu nàng không ngước mặt lên nhìn chàng, rồi nhìn bộ đồ rằn ri như muốn hỏi tại sao một người mặt mũi lịch sự thanh tao như vậy lại có thể mặc được bộ đồ rằn ri dữ tợn. Lúc ấy, Huân mới để ý là cô nàng duyên dáng thật. Lại ăn bận lịch sự và đúng mốt, hợp thời trang nữa. Bộ quần áo của nàng đang mặc Huân nhìn thấy không nhiều ở đất cao nguyên này. Nhưng tất cả những cái đó không bằng cặp mắt. Ánh mắt của nàng như muốn nói cho Huân biết là nếu chàng chịu khó tán tỉnh, chàng sẽ chiếm đoạt được nàng. Đời Huân, Huân đã gặp ít nhất vài ba người đàn bà như vậy.

Diễm mở cửa tủ kính, lấy cây viết đưa cho Huân. Chàng cầm lấy, ngắm nghía rồi hỏi:

-Cô cho mượn lọ mực, tôi viết thử được không?

Diễm khoanh tay đứng nhìn Huân, ngần ngừ một lúc rồi xoay động đôi vai nói:

-Đúng ra thì lệ ở đây không cho khách thử viết nhưng với ông thì… đặc biệt.

Huân cười:

-Tiệm này cũng có chương trình đặc biệt dành cho quân nhân chăng?

-Không! Tại vì tôi thấy ông lịch sự và trang nhã.

Huân cười nhẹ:

-Riêng tôi, nói thật với cô hàng, tôi mua bút cũng đã nhiều nhưng chưa bao giờ muốn thử cả. Cô có biết vì sao tôi muốn thử cây bút này không?

Diễm cười lên khanh khách, hàm răng thật trắng vào đều đặn:

-Thôi đi, ông muốn nói tại vì tôi đẹp phải không?

-Cô lầm rồi. Tôi không có thói quen khen người khác phái là đẹp. Tôi nghĩ một người đàn bà đẹp luôn luôn biết rằng mình đẹp, tất cả những lời khen tặng đều là dư thừa cả.

Diễm mở nắp một bình mực, hút một tí mực vào bút. Nàng đưa cây bút cho Huân và để ý và nhìn thấy những ngón tay dài đầy lông măng của chàng không có đeo nhẫn cưới:

-Vậy thì tại sao, ông lính?

-Tại vì hồi nãy tôi để ý thấy cô cứ nhìn chằm chằm vào người tôi. Tôi biết cô có… cảm tình với tôi.

Diễm đỏ bừng mặt, cặp mắt “ngổ ngáo” lúc nãy bây giờ chẳng dám nhìn thẳng vào mặt người khách. Ông lính đẹp trai này quả là một nhà tâm lý tài tình, Diễm nói với lòng mình như thế. Một lúc sau đó, nàng mới lấy lại được bình tĩnh để nói:

-Hay nhỉ, có cảm tình với ông. Sao mà ông lại tự tin lắm vậy?

Huân cười, vẫn nụ cười ngạo nghễ, nửa như châm chọc, nửa như vuốt ve:

-Không phải tự tin mà là linh cảm. Linh cảm của một người lính cô đơn và xa nhà.

-Ông vừa mở máy tán?

-Tại sao lại không nhỉ? Thật là bất lịch sự và ngu xuẩn nếu đứng gần một người đẹp như cô mà không chịu tán. Cô, à, cô gì nhỉ?

-Diễm.

-Diễm, hay quá. Tôi tên Huân.

Diễm không nói gì, vòng tay lại nhìn Huân chờ đợi. Huân nhún vai, hỏi:

-Cô Diễm cho tôi xin miếng giấy.

-Ông tán gái hay lắm.

Huân lắc lắc cho cây bút xuống mực, cúi người trên tủ kính rồi gạch vài gạch vào miếng giấy trắng. Rồi chàng xuống hàng, ngón tay đầy nhựa thuốc lá nắn nót viết chữ… “CAPSTAN” thật đều và thật đậm nét. Viết xong, Huân thẳng lưng lên, nhìn ngắm chữ CAPSTAN mình vừa viết như một ông cụ đồ nho ngắm câu đối tết vừa vẽ xong. Chàng xoay người đưa tờ giấy cho Diễm coi, hóm hỉnh nói:

-Cô Diễm thấy chữ tôi viết có… đẹp không?

Diễm bật cười, gật đầu, bắt đầu cảm thấy thích anh chàng. Nàng chưa gặp được một người nào tự nhiên và lại tự tin đến như vậy:

-Kể ra thì đẹp thật. Nhưng trên đời này có thiếu gì chữ để viết, tại sao lại viết CAPSTAN là tên của một loại thuốc lá?

-Cô Diễm cho thử một câu đi để tôi viết?

Diễm cười:

-“Anh Là Lính Đa Tình, ” được không?

Huân cũng cười, nhưng nhún vai:

-Đó là đầu đề của một bài hát, nhưng nghe thấy ghê quá cô Diễm ạ.

-Vì sao thế?

-Vì lính là những người cô đơn nhất trên trần gian này. Lính chẳng bao giờ có thể đa tình được cả.

-Đáng buồn thật, thế mà Diễm cứ tưởng các anh lính đa tình lắm. Thế thì “Những Đồi Hoa Sim” được không?

-Nghe buồn quá.

-Thế “Xuân Này Con Không Về Mẹ Ơi” có được không? Nghe có vẻ … “hiền lành hiếu thảo” vô cùng.

-Nghe ủy mỵ và yếu quá. Cô Diễm cho câu khác đi.

Diễm suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu, nhún vai:

-Tôi chịu!

-Thế thì để tôi thử lại xem. Tôi vừa nghĩ ra một câu.

Huân cười với ý nghĩ của mình. Chàng nhích người đứng sát bên nàng, rồi cúi đầu xuống, cố ý để ống tay áo rằn ri để cạnh tay áo màu xanh của Diễm. Diễm thấy hơi lạ nhưng để yên, coi thử ông khách hàng “âm mưu” gì. Huân nắn nót viết trên tờ giấy: “Chiếc Áo Phong Sương Tựa Áo Nàng.”

Huân lại đưa miếng giấy cho Diễm coi:

-CAPSTAN là ý nghĩa của câu này.

Diễm nhìn mảnh giấy rồi nhìn Huân và cười thích thú, bảo:

-Hay quá nhỉ? Rất đúng hoàn cảnh mà cũng hay nữa. Diễm không ngờ dân hút thuốc lá có nhiều thiên tài… thi sĩ đến như vậy? Ông đã tựa bao nhiêu chiếc áo nàng rồi?

Huân không trả lời, đóng nắp cây bút lại, mắt vẫn không rời tờ giấy:

-Cô Diễm biết xuất xứ cái câu này như thế nào không?

-Bắt chuyện hay lắm. Ông kể cho tôi nghe đi.

-Ngày xưa, có một ông Tây đi lính đánh trận sang Việt Nam…

Huân ngừng lại ở đó, đưa cây bút cho Diễm:

-Cô Diễm chọn cho tôi một màu khác đi, tôi không thích cái màu đỏ này. Nó hung dữ quá, không hợp với những người… có tâm hồn thi sĩ như tôi.

-Nhưng ông chưa kể hết chuyện mà. Ông phải kể thì tôi mới chọn màu hộ ông được.

-Chuyện hay lắm, nhưng kể trong không khí này mất cái hay đi. Tối nay, nếu Diễm có rãnh, mình gặp nhau ngoài công viên, tôi kể tiếp cho Diễm nghe…

Ánh mắt Diễm thoáng lên một ngọn lửa hoan lạc. Nàng mỉm cười sung sướng, đứng lặng một chút rồi nói:

-Dân nhà binh có khác. Đốt giai đoạn mau lắm. Tối nay thì không được nhưng chiều mai thì Diễm rảnh. Khoảng 2 giờ được không?

Vậy là hai người quen nhau buổi chiều hôm sau. Dễ dàng và thơ mộng. Đi với Huân lần đầu trong công viên, nàng thấy bên trong lớp áo rằn ri dữ tợn của chàng là một tâm hồn thật trẻ trung, vui tính và yêu đời. Dưới mắt chàng, hình như, chẳng có chuyện gì là quan trọng cả. Đi ngang đám trẻ đang đá banh, anh chàng ngứa giò, xin phép Diễm rồi cởi giày chạy ra sút vài quả bóng với bọn trẻ. Nàng đứng im nhìn Huân lừa bên này lách bên kia với đám trẻ và mỉm cười thích thú. Diễm không biết trên thế giới này có được bao nhiêu người đi chơi với đào lần đầu tiên mà lại xin phép cởi giày để đá bóng vài phút với bọn trẻ. Đi dưới những tàng cây to lớn có đến hàng trăm tuổi, chàng chỉ và đọc tên vanh vách cho Diễm nghe từng loại cây. Có vài con chim bay lướt trên cao, Huân ngước nhìn rồi nói rõ lai lịch chúng nó. Kể cả những loại tre loại trúc, Huân cũng biết rõ xuất xứ. Hình như, với chàng, rừng rậm là một thứ mà chàng biết rất nhiều. Hình như, rừng rậm và cây cối mới là quê hương, là nơi mà chàng có thể sống thoải mái được.

Diễm chỉ để ý đến một điều là anh chàng hút thuốc hơi nhiều. Một lần, Huân mồi thuốc và nói với Diễm:

-Mỗi lần mua bột bao thuốc lá mới, anh luôn luôn bị ám ảnh bởi câu “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng” của gói CAPSTAN.

-Nghe có vẻ buồn hơn “Chiếc Áo Phong Sương Tựa Áo Nàng.”

Huân phà khói thuốc, hỏi:

-Em có tin dị đoan không?

-Thỉnh thoảng.

-Hồi xưa, anh có một thằng bạn. Nó có đeo một cái nanh heo rừng trong người. Nó bảo anh là ngày nào nó còn mang nanh heo rừng thì súng đạn không đụng đến nó được…

Huân bỏ lửng câu nói. Diễm nhận ra là nàng thích cái lối nói chuyện này. Nó làm cho người ta trở nên hồi hộp:

-Rồi sao nữa?

Chàng nhìn ra xa xa:

-Một ngày nó đi nhảy toán, bị bắn chết, bạn bè đem xác về được. Anh liệm nó vào hòm, mò mẫm tìm cái nanh heo rừng nhưng không thấy.

Ngừng một chút, Huân tiếp:

-Em biết nó ở đâu không?

-Không?

-Anh cũng chẳng biết, cứ nghĩ là anh chàng nào đó đã lấy rồi. Chiều đó anh đi tắm, mới thấy cái nanh heo rừng nó bỏ quên, treo lơ lửng trên vòi nước.

Diễm rùng mình. Huân nói:

-Ở trên đời này, có nhiều chuyện mình không thể giải thích được mà nó vẫn xảy ra.

-Chuyện nanh heo rừng em đã nghe vài lần, nhưng cái câu gì đó thì dị đoan gì?

-Chính nó dạy cho anh. Nó bảo, khi mày yêu ai, đi mua thuốc lá đừng nói “Bán cho tôi gói Capstan mà phải nói bán cho tôi một “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng…”

Diễm cười:

-Nếu không thì sao?

-Tình yêu sẽ tan vỡ.

Diễm lắc đầu:

-Em không ngờ mấy ông nhà binh lại lẩm cẩm như vậy. Mà từ lúc gặp em, anh đã đi mua thuốc lá lần nào chưa?

-Rồi!

-Anh nói thế nào?

-Anh bảo cô hàng bán cho tôi một “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng.”

Diễm nhìn xuống đất, dấu nụ cười:

-Sao anh lại nói vậy? Anh đã yêu Diễm đâu? Mình mới quen nhau mà…

Huân cười:

-Gặp được một người như Diễm mà không yêu thì thật là bất lịch sự…

Diễm bật cười, nói theo với Huân:

-Và ngu xuẩn… Diễm hỏi thật anh, anh đã nói câu đó với bao nhiêu người đẹp rồi?

-Không nhiều lắm, chỉ với những người mà anh thật thích như là Diễm.

-Đơn giản thật. Anh nói chuyện hay lắm. Anh kể chuyện đời anh cho Diễm nghe đi?

-Chuyện đời anh nghe chán lắm, chỉ sợ em buồn ngủ.

Diễm đưa mắt liếc Huân:

-Xin anh chớ quên là từ chối lời yêu cầu của một người đàn bà trong hoàn cảnh này là bất lịch sự và ngu xuẩn đấy nhé.

Huân cười:

-Anh cũng định nói vậy. Thôi được, vậy em muốn bắt đầu từ lúc nào?

-Từ lúc anh còn bé.

-Xa quá, làm sao anh nhớ hết.

-Thế thì từ lúc anh đi học.

-Tuổi học trò anh chẳng có gì đáng nói. Từ lúc đi lính được không?

-Chuyện mấy ông lính nghe chán chết.

Tự nhiên, Huân xoay người đưa mắt nhìn Diễm. Ánh mắt người sĩ quan Lôi Hổ trẻ vừa lóe lên một tia nhìn đau khổ. Đau khổ nhưng tha thiết một cách lạ lùng. Diễm giật mình. Tia mắt đau khổ ấy trong mắt Huân dù rất nhỏ, dù rất tha thiết nhưng Diễm nhìn thấy được ngay. Nàng thấy xót xa và bối rối. Diễm cúi đầu, cấm lấy tay Huân:

-Anh Huân, Diễm xin lỗi anh.

Huân cười. Nhưng nụ cười hơi méo đi, đôi mắt vẫn còn đọng chút đau thương. Chàng búng điếu thuốc ra xa rồi đưa tay mình úp lên bàn tay của Diễm.

-Diễm vô duyên quá, Diễm quên anh là lính.

-Anh không trách. Nhưng Diễm có biết ai là người giữ cho thành phố làng mạc được yên bình không?

-Mấy ông lính.

-Ai là người bỏ gia đình, bỏ vợ con, bỏ tất cả ra sống ngoài rừng ngoài rú, kề cận với tử thần hằng ngày?

-Cũng mấy ông lính.

-Ai là người chịu thiệt thòi nhất trong cuộc chiến này?

-Cũng mấy ông lính… Mà thôi, anh đừng hỏi nữa, Diễm hiểu rồi.

Huân im lặng một lúc rồi nói thật dịu dàng:

-Bây giờ để anh kể chuyện đời lính của anh cho Diễm nghe…

-Thôi anh ạ, để lúc khác đi, Diễm hết muốn nghe rồi.

Huân lại móc gói thuốc. Diễm cầm lấy điếu thuốc trong tay Huân, gõ gõ vào cái hộp quẹt Zippo một cách rất sành điệu. Huân nhìn nàng ngạc nhiên, không hiểu nhờ đâu mà Diễm lại gõ thuốc tài tình đến như vậy.

Nàng ngồi sát vào Huân, đưa điếu thuốc cho chàng và khẽ nói: “Chiếc áo phong sương tình anh nặng…”

Huân cắm điếu thuốc vào môi mình, nghiêng người xuống. Diễm đưa cái hộp quẹt Zippo của Huân lên, dùng ngón tay mở nắp rồi bật lửa cho chàng, tay kia đưa ra che gió.

Huân rít một hơi thuốc dài, nhả khói ra, hỏi:

-Em học ở đâu mà nhồi thuốc hay quá vậy?

-Ngày xưa, bố em làm biếng, mỗi lần hút thuốc mà không tìm ra hộp quẹt hay bắt em xuống bếp mồi thuốc cho bố.

-Ngoan quá nhỉ. Em kể chuyện đời em cho anh nghe đi.

Diễm cười:

-Bắt đầu từ lúc nào?

-Lúc nào em thấy dễ nhớ nhất.

Diễm ngước mắt nhìn lên trời, rồi lại cúi xuống, rồi lại nhìn lên:

-Đời Diễm buồn lắm…

Huân nghe vậy thì thấy xót xa trong lòng. Không hiểu sao, chàng đã mơ hồ đoán ra chuyện này.

-Nhà em ở Nha Trang. Mấy cha con em đang sống an bình vui vẻ bỗng một ngày, năm Diễm học đệ tứ, bố em bỏ mẹ con em đi đâu mất biệt. Mẹ bảo bố đi theo vợ bé vào miền Tây sinh sống. Có một điều mẹ em không nói là ngày bố đi, bố nghe lời vợ bé, bao nhiêu vàng bạc trong nhà bố vét sạch đem theo…

Huân hít thuốc lá liên tục. Diễm nhìn ra xa xa, tiếp, giọng đều đều:

-Thế là em phải nghỉ học để phụ giúp mẹ. Bố đi rồi, mình mẹ lo không nổi mọi chuyện. Tội nghiệp mẹ lắm anh ạ. Em thương mẹ ở chỗ, dù bị bỏ rơi như thế, mẹ không hề mở miệng ra than thân trách phận, không hề chửi bố lấy một lời, dù sau lưng bố. Điều làm cho em đau khổ nhất là mẹ vẫn còn hy vọng một ngày nào đó bố sẽ về. Em biết bố sẽ không bao giờ về nhưng mẹ thì vẫn muốn tin như thế…

-Sao em biết?

-Đàn bà có một linh tính đặc biệt của trời cho anh ạ. Hơn nữa, em gần gũi bố nhiều, em biết tính bố. Bố đã quyết định chuyện gì rồi là không bao giờ thay đổi ý kiến… Em nghĩ mẹ em cũng phần nào biết được như thế nhưng mẹ không muốn tin như vậy…

-Bản chất của con người. Trong cơn đau khổ hay nguy khốn, người người ta luôn luôn muốn tìm một cái gì đó để hy vọng, để tin vào…

Diễm tiếp:

-Buôn tần bán tảo mấy năm, để dành được ít vốn, mẹ em và bà dì hùn nhau lên Ban Mê Thuột mở cửa tiệm hàng xén. Ở đây làm ăn dễ quá anh ạ, người mua thì nhiều mà người bán thì ít. Em ở đây ba năm rồi, và cảm thấy thích cái thành phố nhỏ này.

Huân nhìn xa xa phía trước. Bên kia công viên, cách con đường quốc lộ là một cái nhà thờ nhỏ nhưng rất dễ thương với cái tháp chuông cao vút.

-Ở đây ba năm, em nhận xét thấy thành phố này như thế nào?

-Hồi mới lên đây Diễm thấy hình như ai cũng… ở dơ hết vì đất đỏ kinh khủng. Đi ra ngoài đường một vòng là bụi đỏ bám đầy đầu tóc. Nhưng ở lâu rồi mới biết dân Ban Mê Thuột là dân sạch sẽ nhất nước vì ở đất đỏ mà hai ngày không tắm thì sẽ biến thành mọi ngay.

Huân cười, hỏi:

-Em có nhớ biển không?

-Cũng nhớ nhưng không nhớ biển bằng nhớ bạn bè anh ạ. Hồi đó Diễm cô đơn và buồn kinh khủng, chẳng quen biết ai cả. Bạn bè cũng khó kiếm nữa. Nếu anh lên đây trước chừng… 3 năm thì Diễm đỡ khổ rồi…

Cả hai người cùng cười. Rồi Diễm bảo:

-Thôi mình đi về anh, chiều rồi…

Chiều thứ bảy đó, Diễm nhận lời mời đi tham dự buổi dạ vũ Giáng Sinh trong căn cứ của Chiến đoàn. Hai người quấn quít bên nhau như đôi chim nhỏ…

Tháng sau, Huân mướn căn gác số 74 B đường Lý Thường Kiệt để làm chỗ hẹn hò. Mới đầu Diễm còn giấu mẹ nhưng sau thì mẹ nàng biết. Bà cũng chẳng cấm cản gì, chỉ bảo: “Con lớn rồi, con đủ trí khôn để quyết định lấy chuyện mình làm. Mẹ chỉ khuyên con nên cẩn thận.”

Ba tháng sau, Diễm khám phá ra một chuyện động trời: Huân đã có vợ…

Tối đó, Huân đang nằm ngủ trên giường thì Diễm lôi anh dậy. Huân chưa kịp mở mắt thì đã thấy hơi thép lạnh băng của họng súng Colt .45 chĩa vào thái dương mình. Trong lúc chập chờn, Huân tưởng mình đang đi nhảy toán và bị Việt Cộng bắt. Chàng đang suy nghĩ tìm cách thoát thân thì giọng Diễm rít lên:

-Ngồi dậy đi! Anh là thằng khốn nạn.

Huân chưa mở mắt nhưng nghe giọng nói đó thì biết chuyện gì đã xảy ra. Từ lúc quen nhau, Huân đã âm thầm chờ đợi một ngày như ngày hôm nay. Cái giọng đay nghiến đó không làm chàng ngạc nhiên lắm. Đàn bà khi ghen thường trở thành những con người lạ lùng. Huân chỉ ngán cây .45 của chàng đang nằm trong tay Diễm. Đạn Colt .45 của Lôi Hổ mà nổ gần vậy và nhè nổ ngay vào chỗ thái dương thì nhất định chết rồi mà người bị bắn vẫn chưa biết mình chết.

Huân hít một hơi thở cho đầy lồng ngực rồi mở mắt ra. Chàng nhìn thấy Diễm đầu tóc rồi bù, nước mắt ràn rụa, cây Colt .45 trong tay nàng run lên từng hồi theo tiếng nấc.

-Dậy đi, sao anh dám lừa tôi?

Mồ hôi toát ra đầy trán nhưng Huân vẫn nằm im không cử động gì cả. Chàng biết Diễm chỉ muốn dọa chàng nhưng súng đạn là một thứ… rất dễ bị cướp cò bất tử. Nhất là khi nó lại nằm trong tay một người đàn bà chưa hề biết sử dụng súng và tâm hồn lại đang bị giao động mạnh như lúc này.

Huân xoay đầu từ từ, giọng rất bình tĩnh:

-Em cho anh hút điếu thuốc được không?

Diễm gầm lên, đau đớn pha lẫn phẫn nộ:

-Không có thuốc thang gì cả. Anh trả lời tôi đi, tại sao anh lại lừa tôi?

Huân đâu có cần nghe câu trả lời của nàng, chàng chỉ hỏi vậy để có cớ tránh cái họng súng quái ác đang chĩa vào ngay thái dương mình và coi thử coi cái khóa an toàn cây súng có mở không. Huân tái mặt khi nhìn thấy cái khóa an toàn đã mở sẵn. Đúng ra là lỗi ở chàng. Huân không bao giờ khóa an toàn cây súng của mình. Trường tình báo dạy cho chàng biết cây súng khi hữu sự mà bị khóa an toàn thì chỉ là một miếng thép vô dụng.

Huân nuốt nước bọt, cất giọng nhẹ nhàng:

-Coi kìa, em muốn anh dậy thì để anh ngồi dậy, nhưng phải nhích ra một chút chứ…

Diễm đang phân vân chưa biết phải làm gì thì trong một tích tắc đó, Huân đã chòm dậy nhanh như cắt, đưa tay chụp lấy cây súng trong tay nàng chĩa lên trời. Một tay chàng ôm Diễm, tay kia chàng lẹ làng gỡ cây súng ra thảy xuống một góc giường.

Hú hồn

Diễm gục đầu vào vai Huân và bắt đầu khóc. Mới đầu chỉ tấm tức nhưng trở thành nức nở chỉ trong vài giây đồng hồ. Huân ôm lấy Diễm, để những giọt nước mắt thấm ướt chiếc áo thun nhà binh. Chàng dỗ dành:

-Anh xin lỗi em. Lỗi của anh, lỗi của anh hoàn toàn.

Diễm lại khóc to hơn, đay nghiến:

-Em khổ quá! Đời một người con gái, anh phải biết chỉ có được một lần làm con gái… Tại sao anh lại lừa em?

Huân nhắm mắt lại, thấy đau đớn tận cõi lòng. Chàng vuốt ve lưng nàng:

-Lỗi của anh hoàn toàn.

-Tại sao anh lừa em?

-Đừng bắt anh trả lời Diễm ạ, anh xin em…

-Anh phải trả lời.

Huân thở dài:

-Anh đâu có lừa em, anh chỉ… chỉ… dấu em.

Đột nhiên nàng xô Huân ra:

-Đàn ông các anh chỉ rặt toàn là một bọn người khốn nạn. Tất cả đều khốn nạn…

Cứ như thế, từ 10 giờ tối cho đến quá nửa đêm, Diễm lúc thì khóc, lúc thì im, lúc thì đay nghiến Huân bằng những lời lẽ nặng nề. Diễm chỉ ngừng lại khi có vài tiếng gõ vào bức vách báo hiệu sự khó chịu của người hàng xóm ở ngay phòng bên cạnh.

Huân lắc đầu, đứng lên bước ra ngoài ban công, nhìn vào bóng đêm trước mặt. Diễm lưỡng lự một chút rồi bước theo. Hai người ngồi im lặng bên nhau trong bóng tối nhìn xuống con đường tối mù phía dưới. Xa xa, mãi gần đầu đường mới thấy ánh sáng vàng vọt hiu hắt của ngọn đèn đường. Tiếng côn trùng rên rỉ, tiếng gió thổi lồng lộng, phủ ngập cái khoảng không gian tối tăm bé nhỏ và u buồn của hai người. Huân đốt thuốc lá liên miên.

Nhìn Huân hút thuốc, chưa bao giờ Diễm thấy ghét cái câu “Chiếc áo phong sương tình anh nặng” bằng lúc này. Láo khoét. Rẻ tiền. Cải lương. Kịch.

Cơn bão đã đi qua và để lại sự tàn phá thê lương trong lòng Diễm. Diễm thấy đau đớn và chua xót vô cùng. Nàng chợt nhận ra rằng, dù biết rằng Huân đã có vợ, Diễm vẫn không thể bỏ chàng được. Nàng đã yêu Huân mất rồi, đã cho Huân hết rồi. Diễm lại khóc lên rưng rức trong bóng tối khi nghĩ mình chẳng còn gì cả. Không ngờ đời mình lại có lúc như thế này. Muốn nói gì thì nói, mình chỉ là một thứ vợ hai, vợ bé của người ta thôi.

Huân kéo ghế ngồi sát bên Diễm, tiếp tục dỗ dành và vuốt ve. Diễm nín khóc, hỏi:

-Trở lại thực tế đi, bây giờ anh tính thế nào?

-Anh sẵn sàng ra đi để cho em được hạnh phúc.

Diễm lắc đầu và thở dài, không nói gì. Một lúc, nàng cầm lấy tay Huân hỏi:

-Sao anh đã có vợ rồi mà còn cả gan đi tán tỉnh em?

Huân đau đớn:

-Anh chẳng biết nữa. Tại anh xa nhà, anh yếu đuối, anh vô liêm sỉ.

-Anh làm vậy lỡ ở nhà chị biết thì sao? Anh không sợ chị ấy buồn à?

-Không!

Diễm hất tay Huân ra:

-Diễm không tin đâu. Anh đừng nói những câu bạc tình nghĩa như thế.

Huân nghiến răng lại:

-Em khỏi cần phải tin nhưng anh nói thật. Anh không yêu vợ anh…

Diễm không nói gì. Huân lại thở dài, nhìn xuống đường, nơi xa xa có vùng ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn nhỏ. Tiếng gió đêm miền cao nguyên thổi rì rào. Cây cối quanh căn gác nhỏ quặn mình trong bóng tối, kêu xào xạc.

-Mà thôi, anh có nói gì em cũng chẳng tin, anh nghĩ, hay nhất, vì tương lai của em, hai đứa mình nên chia tay nhau. Em còn trẻ, còn tương lai, thiếu gì người sẽ theo đuổi em…

Diễm vẫn không nói gì.

-Đời anh coi như xong rồi. Anh sẽ về để tập yêu thương lại vợ anh. Còn em, tương lai em còn sáng sủa lắm, đừng vì một lỗi lầm nhỏ của mình mà bỏ phí cuộc đời đi. Mình chia tay nhau nhé?

Huân im lặng chờ đợi nhưng chỉ có tiếng khóc thút thít trả lời cho chàng. Huân lại vỗ về, giọng nói và thái độ như người anh an ủi đứa em:

-Anh biết em yêu anh, nhưng em sẽ quên anh được. Em phải nghĩ đến tương lai của mình. Em phải tập quên anh và anh cũng phải tập để quên em.

-Anh nói thật hay anh chỉ làm bộ?

-Anh đau lòng lắm nhưng anh chưa bao giờ thật bằng lúc này.

Diễm lại bật khóc. Rồi, thật bất ngờ, nàng đưa hai tay ôm kín Huân vào lòng mình, xiết thật chặt, nghẹn ngào:

-Trễ quá rồi anh Huân ạ, Diễm không thể nào bỏ anh được nữa rồi.

-Diễm…

-Nói đi anh, nói đi.

-Nói gì?

-Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng…

-Nhưng… nhưng… tụi mình…

-Quên chuyện đó đi anh. Anh nói với Diễm đi anh, nói đi, nói “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng”. Diễm năn nỉ anh. Nói để cho thần linh chứng giám chuyện tình của hai đứa mình, nói đi để cho chuyện tình của hai đứa mình sẽ không bị tan vỡ… Nói đi anh, nói mau đi… coi chừng thần linh sẽ giận.

Huân nói liền, giọng thẫn thờ như người chưa thoát ra khỏi sự dày vò của suy tư: “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng…”

Thế là, truyện tình với người đàn ông… có vợ của Diễm lại tiếp diễn. Buồn phiền cũng lắm mà say đắm cũng nhiều. Diễm không rời xa Huân được và ngược lại, Huân cũng không thể nào làm khác hơn. Cả hai sống như vậy và không ai dám nghĩ đến tương lai. Vợ Huân lạnh lùng, cả năm trời mới gởi được cái thư chữ viết rời rạc, vô nghĩa lý. Huân nhìn lá thư, nhớ đến con, nghĩ đến người vợ và lắc đầu.

Khoảng hai tháng trước lễ Giáng Sinh, Diễm thấy cơ thể khó chịu, ăn uống không được, ói mửa bất thường. Một chiều, Huân về nhà sau 15 ngày hành quân nơi vùng tam biên, chưa kịp cởi áo ra thì Diễm đã cho nổ một trái bom nguyên tử với sức mạnh cỡ 200 megaton ngay trước mặt chàng, trong căn gác số 74 B đường Lý Thường Kiệt. Diễm bảo: “Em có thai.”

Bom nguyên tử nổ thật là khủng khiếp. Huân thấy trời đất quay cuồng, vũ trụ đảo lộn. Chàng bị quật ngã xuống đất rồi lòm còm bò lên giường nằm bất động, không nói được một tiếng.

Không phải chỉ có Huân mới bị ảnh hưởng của bom nguyên tử, Diễm cũng bị lây. Nàng chết trong lòng khi thấy Huân không lộ một chút vui mừng nào. Dù sao, đó cũng là giọt máu của chàng. Diễm bỏ mặc Huân nằm trên giường rồi lẳng lặng mở cửa bước ra khỏi nhà.

Nàng khóa cửa, nước mắt trào ra, cổ họng nghẹn cứng. Diễm đứng không muốn vững. Nàng phải vịn vào thành cửa một lúc thật lâu mới lấy lại được sự thăng bằng. Diễm lắc lắc chùm chìa khóa nhỏ trong tay rồi mím môi ném nó tuốt ra phía sau vườn, thật xa, nơi có mấy khóm chuối hoang, mấy cây tầm duột chẳng bao giờ có trái và cỏ dại cao lên tới đầu.

Diễm nghẹn ngào nói nhỏ: “Vĩnh biệt anh Huân. Vĩnh biệt.”

Rồi nàng bước từng bước một xuống cầu thang, tự nhủ với lòng mình rằng mình sẽ chẳng bao giờ trở lại nơi này nữa. Nàng cũng tự nhủ sẽ chẳng bao giờ còn gặp Huân nữa. Không bao giờ.

Gần chiều Huân giật mình tỉnh giấc và khám phá ra Diễm đã đi đâu mất rồi. Chàng ra ngoài ban công ngồi chờ. Chiều, Diễm cũng không về. Tối, 8 giờ nàng cũng không về. Huân thay quần áo, ra cái quán cóc đầu phố ngồi kêu bia uống để chờ. Uống đến chai bia thứ tám, đồng hồ trên tường gõ mười tiếng dài não ruột. Huân biết Diễm sẽ không đến vì đã tới giờ giới nghiêm.

Chàng lắc đầu, thở dài một tiếng…

Bà chủ quán đi ra đi vào, không dám than phiền nhưng dáng điệu rất khổ sở. Bia uống hết ngon, Huân liền kêu tính tiền rồi lạng quạng bước ra. Thành phố Ban Mê Thuột giờ giới nghiêm vắng ngắt như một bãi tha ma. Gió đêm thổi lên từng cơn rùng rợn. Huân lủi thủi bước về lại căn gác, lên lầu lấy cây Colt .45 nhét vào bụng rồi xuống đường mở máy chiếc xe díp. Chàng lái xe xuống nhà Diễm.

Chiếc xe díp của Chiến Đoàn III Lôi Hổ phóng băng băng giữa thành phố vắng người…

Đèn trong nhà Diễm tự nhiên tắt ngấm khi Huân vừa thắng chiếc xe. Huân lắc đầu ngao ngán. Chàng biết có vào gõ cửa cũng bằng thừa nhưng quyết định vào.

Huân gõ đến lần thứ tư thì cánh cửa bật mở. Má Diễm ló đầu ra bảo: “Cháu về đi. Diễm nó mệt.”

Huân chưa kịp nói thì cánh cửa đã đóng sầm một cái. Chàng đứng yên trong bóng tối một lúc rồi ngồi ngay xuống thềm nhà Diễm, dựa lưng vào vách đốt thuốc. Đàn muỗi đói xông tới tới công. Huân nới ống tay áo và kéo cao cổ áo lên. Muỗi vẫn tấn công tới tấp. Chàng bỏ mặt. Cứ coi như trực thăng đến trễ một ngày. Cứ coi như tối nay mình còn nằm trong rừng.

Một lúc nào đó, Huân cảm thấy mệt nhoài. Sự mệt mỏi của gần tuần lễ trong rừng thẳm, sự tàn phá của trái bom nguyên tử và men rượu của tám chai bia lớn đẩy chàng nằm xuống. Huân ngủ thiếp đi trước thềm nhà Diễm, một tay thọc sâu vào bụng nắm chặt lấy cán cây súng Colt .45. Tay kia để ngược ra sau trong tư thế chuẩn bị. Đàn muỗi đói vẫn bay vo ve nhưng đối với Huân bây giờ chúng chẳng còn có nghĩa lý gì nữa. Lính Lôi Hổ muốn ngủ là ngủ được, dù ở bất cứ chỗ nào.

Huân ngủ rất ngon, không một tiếng gáy, không một lần trở mình như chàng vẫn thường ngủ ở trong rừng mỗi khi đi nhảy toán.

Bỗng, trong một khoảng thời gian nào đó trong đêm, tai người sĩ quan Biệt Kích nghe được tiếng động lạ. Huân tỉnh giấc liền và nhận ra ngay đó là tiếng mở cửa. Ngón tay đang bám cứng vào cò súng của chàng liền nới lỏng ra. Nhưng Huân vẫn nằm im, chờ đợi. Rồi tiếng dép khua lẹp kẹp. Huân nhận ra bước chân của Diễm. Chàng vẫn nằm im, miệng lại nở lên một nụ cười.

Diễm xách cây đèn dầu đến bên Huân, cúi nhìn người lính mặc đồ rằn ri đang nằm ngủ trên thềm nhà. Rồi nàng để cây đèn dầu xuống bên cạnh, ngồi xuống bên cạnh Huân, nâng đầu chàng lên để lên đùi mình…

Trong một khoảnh khắc, nàng quên hết. Quên những gì vừa xảy ra chiều nay, quên giọt máu của Huân trong bụng mình, quên cái tương lai đầy bất trắc trước mặt để chỉ biết một điều: Nàng đã yêu đắm đuối cái con người đang nằm trong vòng tay nàng đây và không thể nào bỏ chàng được…

Rồi chuyện đâu cũng vào đấy. Diễm lại trở về với Huân. Trở về với cái bào thai đang từ từ lớn dần trong bụng mình và chờ đợi. Cuộc sống hai người không còn như xưa nữa. Diễm vui buồn bất chợt. Có lúc vừa cười xong thì lại khóc ngay sau đó. Vừa mới âu yếm nhau thì lại gây gổ liền. Mỗi lần Diễm phản ứng như vậy Huân thấy đau đớn tận đáy lòng.

Chiều nay cũng vậy, Huân nhói trong người không phải vì cái tát mà vì sự thay đổi tính tình bất thường của Diễm. Đàn bà có thai mà bị xúc động nhiều quá không tốt. Chàng nghĩ đến đứa con trong bụng mình và cảm thấy lo sợ…

Rồi hai người lại làm lành với nhau. Diễm đã thôi khóc, thôi đay nghiến. Huân đang ngồi vuốt ve an ủi Diễm thì có tiếng xe díp thắng trước nhà. Huân nhóm người lên nhìn xuống và nhận ra đó là xe của Chiến Đoàn. Người trung sĩ tài xế trên xe phóng xuống như bay, chạy lên gác.

Huân lắc đầu toan đứng lên nhưng Diễm đã ghì chặt lấy chàng, úp mặt vào ngực chàng, nói nhỏ:

-Anh cứ ngồi đây với em, chừng nào ông ấy lên thì đứng dậy cũng chưa muộn…

* * *

Đám sĩ quan Lôi Hổ quay quần bên tấm bản đồ để trên bàn. Đại tá Phùng chấm dứt phần nói chuyện:

-Còn ai có ý kiến hay thắc mắc gì nữa không?

Không ai nói gì. Thực ra, người đáng lý ra phải có ý kiến nhiều nhất là Huân vì tất cả các sĩ quan có mặt đều được giao một công tác ngoại trừ chàng. Nhưng Huân không thèm mở miệng. Chàng biết, đã được gọi vào đây để tham dự phiên họp này thì trước sau gì tên mình cũng được nhắc đến, khỏi cần “mua việc” hay thắc mắc làm chi cho mất công.

Đại tá Phùng đứng lên:

-Vậy cứ theo kế hoạch mà làm. Ý của ông tướng Phú rất đơn giản. Ổng muốn xác nhận sự có mặt của sư đoàn 10 và sư đoàn 316 trong các khu vực đó. Anh em chỉ cần tóm một vài thằng đem về đây là xong công tác. Bây giờ anh em có thể giải tán được…

Mọi người dơ tay lên chào, Huân cũng bình thản tính dơ tay lên chào để đi ra nhưng đại tá Phùng lại nói:

-Khoan, Đại úy Huân ở lại chờ tôi một chút.

Đã chuẩn bị từ trước, Huân thản nhiên bỏ tay xuống chờ đợi. Còn hai người trong phòng, Đại tá Phùng chỉ cái ghế gần mình. Huân ngồi xuống. Ông chiến đoàn trưởng nhìn Huân, giọng thân mật:

-Gia đình anh lúc này thế nào?

Huân hơi ngạc nhiên vì câu hỏi:

-Cám ơn đại tá, vẫn thường thôi.

-Vợ anh thế nào?

Huân bối rối:

-Cám ơn đại tá, cũng thường, nhưng lâu quá chưa liên lạc được.

-Sao lâu lắm rồi không thấy anh đi phép về Sài gòn?

-Tôi có nhiều việc làm ở Ban Mê Thuột quá…

Huân không muốn nói nhiều hơn. Hai người im lặng. Đại tá Phùng tính nói một câu gì đó nhưng lại thôi. Cả hai đều đột nhiên cảm thấy là bầu không khí trong phòng đang trở nên ngột ngạt.

Ông đại tá liền đổi đề tài:

-Anh biết tại sao tôi mời anh ở lại đây không?

-Tôi có linh cảm một chuyện đặc biệt nhưng không biết đặc biệt… cỡ nào.

-Anh có một nhiệm vụ quan trọng hơn. Xác nhận sự có mặt của chúng nó chỉ là chuyện phụ… Tôi và ông Trung tá Khiếu phòng II biết rất rõ và có bằng chứng là chúng nó đã tập trung 4 sư đoàn ở mặt trận cao nguyên này…

-Nếu biết vậy thì mình còn cho người đi bắt lính chúng nó về đây làm gì?

Ông Phùng lắc đầu:

-Để trình diện Quân đoàn, để làm đẹp lòng tướng Phú, khổ là như vậy. Ông tướng này có vẻ không mấy tin tưởng vào các tin tức tình báo của bọn mình đưa lên. Ổng muốn chứng minh, ổng muốn mình phải bắt được vài thằng lính của chúng nó làm bằng chứng. Nhưng chuyện này chẳng có gì khó, nghề của bọn mình mà. Xưa này mình đã làm bao nhiêu vố rồi, làm thêm một vố đâu có sao. Nhưng mà…

Huân chờ đợi. Chàng biết những gì chàng sắp nghe quan trọng vô cùng.

-Anh Huân, cái chuyện chính, chuyện tôi muốn nói với anh là cái chiến trường cao nguyên, đúng hơn, cái mặt trận B3 theo lời gọi của chúng nó sẽ bùng nổ rất lớn sau tết. Chúng nó sẽ đánh. Đánh cú chót cạn láng. Chúng nó sẽ ta pi mình một lần nữa như cái kiểu mùa hè năm 72…

Đại tá Phùng ngừng nói. Ông nhìn xuống tấm bản đồ để trên bàn, lắc lắc cái đầu:

-Chấp tụi nó. Biết nó đánh thì mình chuẩn bị, nó đánh lớn thì mình chuẩn bị lớn, đánh nhỏ thì chuẩn bị nhỏ, chuyện này cũng chẳng có gì đáng nói. Cái đáng nói nhất, chuyện quan trọng nhất đang làm ông tướng Phú và toàn ban tham mưu mất ăn mất ngủ là không biết chúng nó sẽ đánh chỗ nào. Ban mê thuột hay Pleiku?

-Ban Mê Thuột hay Pleiku?

Huân lập lại như người chưa tỉnh cơn mộng và thấy đau nhói trong tim mình. Ban Mê Thuột, thành phố nhỏ bé hiền hòa này không phải là thành phố của chiến tranh. Người dân Ban Mê Thuột chưa sẵn sàng để hứng đạn đại pháo. Dân quân Ban Mê Thuột chưa được trang bị đầy đủ để chống tăng. Quan trọng nhất, Diễm và đứa con trong bụng nàng chưa chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc chạy loạn.

-Như tôi đã nói, ông tướng muốn bắt sống vài thằng tù binh, mình sẽ bắt đem về cho ông tướng đẹp lòng, nhưng đồng thời, lợi dụng việc đó, tôi cũng vừa nghĩ ra một cách để giải quyết mối lo trong gan ruột ông tướng…

Ông ngừng nói, nhìn Huân như muốn ước lượng xem thử người sĩ quan thuộc quyền có thể đoán được những gì mình muốn nói. Đại tá Phùng kéo ghế ngồi gần sát Huân:

-Sở dĩ tôi giữ anh lại đây là vì tôi muốn dùng anh vào việc này. Trong chiến đoàn của mình, nếu không có anh thì không ai có thể làm được việc này. Anh muốn giúp tôi không?

Huân gật đầu liền. Đại tá Phùng khoái cái lối gật đầu kiểu này. Nó không điếu đóm, không kịch, và chắc chắn như một lưỡi dao chém sâu xuống mặt bàn.

-Mình có bắt được một trăm thằng lính bộ đội ông Hồ cũng không biết được mấy thằng chóp bu của chúng nó đang âm mưu cái gì. Chắc anh cũng biết, Cộng sản làm gì cũng có chuẩn bị, có kế hoạch, có học tập, có nghị quyết v.v… Nếu chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột hay Pleiku, chắc chắn mấy thằng Sư trưởng của chúng nó không thể nổi hứng rồi quyết định đánh khơi khơi được. Lệnh phải xuống từ Bắc Bộ Phủ cho mấy mấy thằng này thi hành. Rồi tiếp theo, các Trung đoàn trưởng phải biết, đúng không?

Huân phần nào hiểu được công tác mình sắp được giao phó.

-Đúng.

-Rồi chúng nó phải học tập, phải thiết lập sa bàn, phải tập trận v.v… Vậy thì, nếu mình gài được con mắt mình ở trong “hậu phương” của chúng nó trong một thời gian dài, mình sẽ biết được ý đồ của chúng nó, đúng không?

-Đúng, tôi đồng ý với đại tá.

-Tốt. Anh nói vậy thì anh… biết công tác của anh rồi. Tôi muốn anh “Đặc Biệt” nhảy xuống mật khu Bù Gia Mập, nơi dưỡng quân của sư đoàn 316 rồi nằm trong đó chừng hai tuần lễ để quan sát và theo dõi. Anh sẽ theo dõi và điều tra thật kỹ cho đến khi nào anh nắm được trong tay một vài bằng chứng gì về ý đồ của chúng nó. Ví dụ một vài tài liệu về vấn đề di chuyển, hay những công điện truyền tin hoặc cái sa bàn tập trận hoặc là bất cứ một cái gì có thể nói cho mình biết về âm mưu của chúng. Công tác của anh tới đó là hết… Cũng có thể, nếu cần thiết, nếu không tìm được bằng chứng gì, anh phải tìm cách tóm cổ một thằng Trung Đoàn Trưởng hay tiểu đoàn trưởng đem về đây để khai thác.

Ngừng một chút cho Huân thấm ý , ông tiếp:

-Anh nên nhớ, việc tóm cổ một thằng trung đoàn trưởng hay tiểu đoàn trưởng chưa chắc phải là chuyện quan trọng. Bắt được chúng nó đem về đây mà không khai thác được thì cũng thành công cốc. Cái quan trọng là làm sao tìm biết được chúng nó sẽ đánh ở đâu, Ban Mê Thuột hay Pleiku. Anh phải biết cái tầm quan trọng của công tác này. Quan trọng vô cùng. Nếu mình biết được chúng nó đánh đâu, mình có thể dàn quân sẵn để chờ. Nếu chúng nó bị thảm bại thêm một cú nữa vào mùa xuân năm nay, chúng nó sẽ hết xíu quách. Cũng như mùa hè năm 72, chúng nó phải mất cỡ 3 năm nữa mới âm mưu chuyện khác được. 3 năm, biết đâu chính quyền mình sẽ đổi khác, biết đâu lòng người sẽ đổi khác, biết đâu cục diện thế giới sẽ thay đổi, biết đâu dân tộc mình rồi sẽ được ít nhất cũng sống được như nước Đại Hàn. Nhưng, ngược lại, mùa Xuân năm nay, nếu mình mắc mưu chúng để bố trí quân tầm bậy thì hậu quả sẽ không thể nào lường được…

Ông đại tá ngừng nói ở đó, nhíu mày tư lự. Huân nói đỡ lời:

-Nếu mình biết nó đánh đâu, mình có đỡ nổi cú này không?

Cặp mắt đại tá Phùng rạng lên một ánh lửa:

-Chẳng những đỡ mà mình còn dập chúng nó tan nát ra. 4 sư đoàn vào đây thì mình sẽ nướng hết cả 4.

Huân thấy vui lây cái niềm vui của ông. Ông tiếp:

-Vậy thì, anh Huân, sau khi nghe giải thích, anh có thể giúp tôi được không?

-Xin Đại tá cho biết kế hoạch của chuyến công tác.

Đại tá Phùng chỉ và mấy điểm trên tấm bản đồ:

-Như sau đây, và tôi có bàn với ông trung tá Khiếu phòng II rồi… Chiều hôm nay, theo lệnh của ông tướng, tôi sẽ thả xuống mấy toán xuống khu Bù Gia Mập. Tôi sẽ cho chúng nó quậy nát một cách thật ồn ào rồi chụp vài thằng tù binh đem về…

Đại tá Phùng mồi điếu thuốc rồi tự nhiên đổi đề tài, nhìn Huân hỏi:

-Lôi Hổ xưa nay chuyên môn nhảy Trực Thăng, nhưng anh có bao giờ nghe Lôi Hổ nhảy… xe Lam chưa?

Huân cười:

-Trình đại tá là nhảy xe Lam thì lính tôi nhảy hoài, lúc nào về phép hết tiền mà chúng nó chẳng nhảy…

Đại tá Phùng không để ý đến câu pha trò, ông đưa ngón tay chỉ xuống quận lỵ Đức Lập, một quận lỵ nằm giữa Ban Mê Thuột và Quảng Đức, phía Đông Bắc của mật khu Bù Gia Mập khoảng vài chục cây số:

-Trong khi mấy toán ban nãy lục soát ở Bù Gia Mập, anh lẳng lặng dẫn toán của anh nhảy… xe Lam xuống chỗ này cho tôi.

Huân nhìn vị chỉ huy:

-Nhảy xe Lam? Lúc nãy tôi tưởng đại tá nói đùa.

-Không đùa! Anh cho cả toán mặc đồ dân sự đón xe lam lên Đức Lập rồi tập trung tại đây cho tôi. Ở đây một một cái rẩy nhỏ có thể chứa các anh được, chi tiết sẽ cho anh biết sau.

Huân sửa lại thế ngồi, chăm chú theo dõi.

-Mình phải nhảy xe Lam bởi vì cái tầm quan trọng vô cùng của công tác. Việt cộng xưa nay biết biệt kích nhảy trực thăng, nhảy C-130 nhưng nó chẳng bao giờ ngờ là mình còn biết nhảy… xe Lam nữa. Vì chẳng ngờ cho nên chúng nó mới không đề cao cảnh giác, không chuẩn bị, không đề phòng. Các anh cứ nằm im trong cái rẩy này trong lúc các toán kia lục soát ở gần mé ngoài mật khu. Lúc rút các toán này về, tôi sẽ đình chỉ tất cả mọi hoạt động thám thính, kể cả của Không Quân. Sau khi không nghe thấy trực thăng của mình trong vòng 5 ngày, chúng nó sẽ yên chí lớn. Đó là lúc mà cái tài quyền biến của anh mới được đem ra áp dụng.

Câu “Cái tài quyền biến” mà ông chỉ huy trưởng dùng làm Huân thích thú mỉm cười. Ông tư lệnh này cũng biết khích tướng đấy chứ.

-Tại đây, Khi thời tiết tình thế cho phép, anh sẽ nhận được đồ tiếp tế và trang bị rồi xâm nhập bằng đường bộ vào vùng làm việc. Tại đây, anh cứ nằm yên một chỗ để quan sát tất cả những sinh hoạt của chúng nó. Theo sự suy nghĩ của tôi, nếu chúng nó sắp đánh lớn thì thế nào chúng cũng cho tập trận. Anh cứ nằm yên đó quan sát cho đến khi nào nắm vững được vấn đề. Tôi nghĩ, nếu chúng muốn đánh Ban Mê Thuột thì chúng sẽ thiết lập sa bàn. Nếu thấy sa bàn của chúng nó, chụp thật nhiều hình đem về đây cho tôi. Có được những tấm hình đó trong tay, mình có thể giải quyết mối lo trong ruột gan tướng Phú được. Mà anh có chuẩn bị được một chuyến đi dài không?

Huân đốt điếu thuốc lá đầu tiên kể từ khi bước vào phòng họp:

-Khoảng 3 tuần lễ?

-Ừ.

Đối với Lôi Hổ, 3 tuần lễ là quá dài so với những lần nhảy trung bình từ 3 hay 4 ngày nhưng Huân biết thời gian công tác không phải là một vấn đề có thể mặc cả trong trường hợp này. Chỉ có đồng ý đi hay không thôi. Chàng nhún vai:

-Cũng phải chịu vậy.

-Một điểm nữa là mình sẽ áp dụng “Im Lặng Vô Tuyến” tối đa để bảo mật. Mỗi ngày một lần, L-19 sẽ bao vùng cách chỗ anh khoảng… 100 cây số. Từ 8 giờ đến 9 giờ, anh chỉ cần mở máy theo phương thức số 3 của mình. L-19 cũng chẳng biết anh ở đâu nhưng sẽ thông báo tín hiệu về chiến đoàn để chúng tôi theo dõi.

Huân gật gù cái đầu. Phương thức số 3 của Lôi Hổ là một trong những phương thức tối mật. Đúng vào giờ hẹn trước, thường thì trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ, người ở dưới chỉ mở máy lên đúng tần số, bấm hai cái vào ống liên hợp. Sau đó chờ đúng năm phút lại bấm thêm mấy cái nữa, tùy theo công điện mình muốn chuyển. Sau đó, lại bấm thêm nữa. Người nhận được vô tuyến sẽ giở cái “khóa” âm thoại truyền tin ra để dịch tin theo những cái bấm. Những tin này phát đi rất giới hạn, thường thì chỉ cho biết là tình trạng an toàn hay có những chuyện gì quan trọng xảy ra không. Nếu có chuyện gì quan trọng, người gởi điện sẽ sắp xếp một cuộc nói chuyện trong thời gian kế.

-Tôi dự đoán là công tác rất nguy hiểm nhưng cũng có thể không. Cực chẳng đã, nếu không tìm thấy gì thì mới bắt cóc người của chúng nó. Tôi muốn cứ để cho chúng nó tưởng rằng mình không biết gì thì tốt hơn bởi vì nếu chúng có nghi ngờ thì chúng sẽ chuẩn bị kỹ càng hơn.

-Nếu tôi hoàn thành công tác hoặc nếu nhận được hàng tốt (bắt được tù binh như ý muốn) thì kế hoạch du lu (dọt) sẽ như thế nào?

-Nếu anh lấy được tài liệu và bằng chứng về cuộc tấn công của chúng hay nếu tóm được giá chót là Tiểu đoàn trưởng của chúng nó thì mình break, gọi L-19 thẳng kêu chuồn chuồn lên bốc anh về. Mười ngày sau kể từ ngày hôm nay, chúng tôi sẽ có sẵn một hợp đoàn và một L-19 để chuẩn bị cho việc này.

-Còn hàng xấu?

Đại tá Phùng lắc đầu:

-Không có vấn đề hàng xấu ở đây đại úy Huân ạ. Nếu anh muốn đi, anh phải tìm được bằng chứng hay đem được hàng tốt về, còn không thì anh có quyền ở nhà. Chuồn chuồn sẽ không lên để chở hàng xấu đâu. Anh biết được vấn đề sinh tử của công tác này mà.

-Đại tá nói vậy có nghĩa là tôi có quyền chọn lựa để… không đi?

-Đúng. Như những công tác thông thường thì anh không có quyền nhưng chuyến này rất đặc biệt, rất nguy hiểm và đòi hỏi một thời gian khá lâu nên tôi chỉ muốn chọn những người tình nguyện… Tình nguyện và có khả năng, dĩ nhiên.

Huân dụi điếu thuốc, đầu óc chìm trong sự suy tư. Ở “hậu phương” thì đào có thai, chưa biết phải giải quyết như thế nào. Công tác sắp phải thi hành thì rặt toàn là những thứ tin mà mình không muốn nghe: Kéo dài 3 tuần lễ, xâm nhập bằng… xe Lam rồi bằng đường bộ, phải lấy được hàng tốt, không tốt thì không về v.v…

Đại tá Phùng nhìn thấy Huân như vậy bèn đứng lên đi đi lại lại trong phòng như muốn tôn trọng sự suy nghĩ của chàng. Huân đốt một điếu thuốc khác. Tuy đang vận hết sức để suy nghĩ nhưng chàng có suy tư gì nổi đâu? Cứ nghĩ đến Diễm là mấy sợi thần kinh như cứng đơ lại, hết co giãn nổi.

Đại tá Phùng đã đứng bên Huân, vỗ vai chàng:

-Anh Huân, anh có muốn tình nguyện đi chuyến này không?

Ngừng một chút, ông tiếp, dù giọng nói rất là… khó khăn:

-Tôi lập lại là anh có quyền từ chối. Nhưng anh nên nhớ, ngoài anh ra, tôi không còn thấy ai ở trong chiến đoàn mình có thể làm được việc này.

Huân vẫn trầm ngâm không nói gì. Trước một cái quyết định quan trọng như vậy thì người ta phải suy nghĩ và đắn đo. Người mà. Mà đã là người thì ai chẳng sợ chết?

Đại tá Phùng nhìn đồng hồ rồi nói:

-Tôi phải đi. Những gì cần nói tôi đã nói hết. Buổi họp đến đây coi như chấm dứt. Tôi cho anh suy nghĩ tới sáng mai để quyết định. Nếu anh không muốn đi cũng không sao cả, tôi sẽ tìm một phương cách khác. Còn bây giờ, chúc anh… về nhà vui vẻ.

Ông đại tá chìa tay ra. Huân đứng lên dơ tay chào rồi bắt tay ông ta. Ông lại nói:

-Nếu anh quyết định nhận công tác, tôi cần có cái danh sách 5 người đi chung với anh để trên bàn giấy tôi trễ nhất là 800 giờ sáng mai. Tôi sẽ đích thân đi gặp từng người để nói chuyện. À, còn chuyện này nữa, tôi có bảo phòng lương bổng ứng trước cho anh hai tháng lương, lát nữa nhớ ghé lấy về, cũng sắp đến Noel rồi… Thôi, vui vẻ nhé…

Huân đứng nghiêm chào vị Đại tá. Nhưng ra tới cửa phòng, ông dừng lại, suy nghĩ giây lát rồi cúi đầu bước trở lại, đến gần Huân vỗ vai nói:

-Anh Huân này, những gì tôi sắp nói không phải là của một Đại tá mà của một người anh em, một người lính nói với một người lính…

Huân không biết ông muốn nói gì. Đây là lần thứ hai ông vỗ vai Huân, một việc mà ông ít khi làm.

-Đất nước mình chiến tranh đã gần hai mươi năm rồi. Riêng tôi, đời tôi cũng gần 20 năm quân ngũ. Tôi biết, đứng trên cương vị và với danh dự của một người sĩ quan, mình luôn luôn cảm thấy khó khăn khi phải từ chối một trách nhiệm được giao phó. Nhưng, là một con người, mình có quyền thắc mắc. Cái thắc mắc đơn giản và thường nhất vẫn là: Tại sao lại tôi? Tại sao tôi phải hy sinh? Hy sinh cho ai và để làm gì? Hoặc giả, tôi hy sinh mà không biết có ai hy sinh chung với tôi không?

Ông ngước mặt nhìn lên cái lá cờ vàng ba sọc đỏ vĩ đại treo ở giữa phòng, nói tiếp:

-Ai cũng biết chiến tranh là tàn khốc nhưng ai cũng quên một điều quan trọng khác của chiến tranh là sự bất công. Bất công vô cùng. Đừng kiếm đâu xa, anh cứ ra trước cổng trại thì nhìn thấy ngay liền. Tại sao có những thằng sống phè phỡn ăn chơi và làm giàu nhờ cuộc chiến và lại có những thằng sống cực khổ như anh và tôi? Tại sao lúc nãy tôi ngồi đây để thuyết phục anh mà không chịu thuyết phục bao nhiêu người khác hy sinh?

Ông đại tá nhìn Huân, giọng rất thành thực:

-Ý tôi muốn nói, là một người chiến hữu, tôi khuyên anh đừng ngại ngùng nếu cần phải từ chối nhiệm vụ. Người ta luôn luôn có những lý do chính đáng để từ chối như vì chuyện gia đình, chuyện vợ con v.v… Mong anh đừng quên những điều ấy.

Rồi ông cúi đầu bước ra. Bước thật mau như sợ người ta nhìn thấy mình vừa nói chuyện với Huân vậy…

Xế trưa một chút ngày hôm đó, Diễm đang bán hàng ở tiệm thì giật mình khi nhìn thấy chiếc xe díp của Huân đỗ xịch lại trước cửa. Nàng đã tính ít nhất thì phải ba bốn ngày Huân mới về được. Huân bước vào, đi rất mau, mặt mày nửa rạng rỡ nửa lo buồn.

-Sao anh về sớm vậy? Không đi công tác hả?

-Anh được rảnh chiều nay. Em giao cửa hàng lại cho mẹ, đi với anh có được không?

-Em tưởng anh phải mấy ngày mới về chứ.

-Chuyện dài lắm, lát anh nói. Anh mới lãnh lương, mình đi bát phố, đi uống cà phê nghe nhạc, đi sắm đồ, đi coi xi nê rồi anh kể cho nghe…

Diễm thấy lòng mình rộn lên một niềm vui khó tả. Niềm vui của cô học trò nhìn người tình đến chở đi chơi vào một buổi chiều thứ bảy.

Xong ngay. 15 phút sau, hai người đã ngồi trong quán cà phê Tường Vân. Thành phố Ban Mê Thuột vào tháng 12 thì trời đã lạnh từ lâu. Diễm đẹp sắc sảo trong chiếc áo len tím. Đôi má nàng hồng lên tự nhiên. Hai người cười nói huyên thuyên.

Từ ngày quen Huân, Diễm nhớ, đã lâu lắm rồi mình chưa có một buổi chiều thơ mộng ấm cúng như chiều hôm nay. Với Huân thì cà phê Ban Mê Thuột pha đậm, uống chung với… khói thuốc lá Capstan, bên cạnh người tình bé bỏng thì chẳng còn gì thú bằng.

Rồi Huân chở Diễm đi chợ sắm một ít quần áo cho đứa đứa bé. Đi chợ ra đói bụng, hai người ghé vào tiệm tàu ăn mì, rồi chui vào rạp chiếu bóng LoDo xem phim “Tình chàng mãi mãi” của David Lean. Buổi tối, khi Huân dìu Diễm bước trở lên căn gác nhỏ thân thuộc thì chàng đã có quyết định: Ngày mai, chàng sẽ đi.

Huân chờ cho đến lúc hai người lên giường ngủ, chàng mới nói, cố làm cho giọng mình thật tự nhiên:

-Diễm ạ, ngày mai anh đi sớm.

Diễm đã buồn ngủ, mắt ríu lại, rúc đầu vào ngực Huân, hỏi rời rạc:

-Đi.. công… tác?

-Ừ.

-Chừng… nào… về…

Huân không trả lời liền. Biết Diễm sắp chìm vào sắp ngủ, chàng không muốn phá giấc. Huân vòng tay ôm lấy vai nàng, và chờ đợi. Quả như ý chàng nghĩ, nhịp thở của Diễm trở nên đều hòa rồi nhỏ dần. Một buổi chiều giải trí vui vẻ làm người đàn bà có thai mệt nhoài.

Huân ngắm người yêu ngủ một lúc rồi nhẹ nhàng đỡ đầu nàng lên gối. Chàng tốc mùng ngồi dậy, ra ngồi nơi chiếc bàn con bật đèn lên, lấy cây bút ra hí hoáy viết vào tập vở học trò:

Ban Mê Thuột Thứ hai ngày 2 tháng 12 năm 1974,

Diễm yêu dấu,

Lúc em đọc những dòng chữ của lá thư này thì anh đang ở một nơi nào đó trên đường đi thi hành công tác. Anh ra đi nhưng để lại lòng anh ở đây. Chuyến đi này khá lâu, khoảng 3 tuần lễ hoặc hơn và không biết anh có về kịp vào lễ Giáng Sinh hay không. Em đừng buồn, đừng trách anh vì sao đi lâu vậy mà không nói cho em biết. Lúc chiều, anh không dám nói vì anh sợ buổi chiều cuối cùng của hai đứa mình sẽ trở nên buồn tẻ. Anh tính chờ khi lên giường rồi nói nhưng nhìn thấy em ngủ ngon lành như một đứa trẻ, anh lại đổi ý vì sợ em lại giật mình lo lắng suốt đêm. Anh đã làm khổ em quá nhiều, cho nên, anh muốn em có được một buổi tối an bình bên anh trước khi anh ra đi. Đừng buồn anh nhé, ráng hiểu cho anh.

Và đừng khóc, Diễm ạ. Cũng đừng đay nghiến anh, tội nghiệp anh.

Diễm ạ, lý do anh viết lá thư này vì có một chuyện rất quan trọng anh muốn nói từ khi hai đứa mình mới quen nhau nhưng anh chưa hề dám. Bây giờ, nếu em cho phép, anh xin mượn trang giấy này để giãi bày: Đó là chuyện đời anh…

Từ hồi còn nhỏ đi học, đọc các bài thơ của các thi sĩ ca ngợi tình yêu, anh thấy tình yêu đẹp thật và thường ngồi mơ mộng hàng giờ. Anh mơ ước sau này lớn lên anh sẽ yêu và sẽ nếm được mùi vị của tình yêu.

Chuyện đó bình thường quá phải không em, ai lớn lên mà chẳng mơ ước được như vậy? Nhưng để anh kể tiếp…

Thế mà lớn lên, khi anh bắt đầu biết chải đầu cho láng, biết ủi quần áo cho thẳng để đi học thì lệnh đôn quân, lệnh bắt lính, lệnh gọi nhập ngũ ào ào đổ xuống đầu bọn anh. Bọn anh học ngày học đêm, học phờ cả mặt mày để đuổi theo cái tờ giấy hoãn dịch cứ lơ lửng ở trước mặt vào mỗi dịp bãi trường. Học ở trường ban ngày xong ra lại lọc cọc đạp xe đi học cour thêm, rồi về nhà chong đèn đến khuya để làm bài. Vừa học vừa đập muỗi chí chóe…

Nhiều đêm, học mệt đừ, nằm vắt tay trên trán, anh cũng không thể tránh khỏi những thèm muốn rạo rực, những đòi hỏi thầm kín của người con trai ở tuổi mới lớn. Anh thèm xiết bao một bàn tay, một đôi môi, một giọng nói ngọt ngào, một lá thư với dòng chữ mềm mại nghiêng nghiêng… Nếu đất nước mình thanh bình, nếu nhân loại không bị họa Cộng sản, thì những mơ ước ấy thật là đơn giản và dễ dàng, nhưng, với bọn anh lúc đó, những chuyện tự nhiên ấy đã trở thành khó khăn diệu vợi.

Bây giờ nghĩ lại anh mới thấy giựt mình. Thật chưa có một thệ hệ tuổi trẻ nào bị thiệt thòi nhiều bằng tuổi trẻ Việt Nam thời ấy. Chẳng ai có một tí thì giờ nào để dành cho tình yêu cả.

Bọn anh học đến sì khói ra như thế mà cứ mỗi độ hè về thì thấy lớp học cứ vơi đi một cách đáng ngại. Thằng khoác áo đi Thủ Đức, đứa hành trang ra Nha Trang Đồng Đế. Bạn bè anh, có khi từng đứa, có khi từng nhóm một, lẳng lặng lên đường ra đi đáp lời sông núi. Tuy thân thiết nhau lắm nhưng những thằng ở lại không có thì giờ để nghĩ đến những kẻ ra đi. Bọn anh còn hàng trăm thứ khác phải lo nếu không muốn “noi gương” chúng nó vào mùa hè năm sau. Anh nhớ, ngày coi bảng đậu trung học xong thì bọn anh còn nghỉ được một tháng để vi vút nhưng coi bảng Tú Tài I xong thì chẳng có được một ngày nghỉ, phải lo mượn sách Đệ Nhất để gạo và chuẩn bị thi tú tài 2 ngay từ mùa hè năm ấy liền.

Nhờ cần cù học ngày học đêm, anh lọt qua nhiều cửa ải cho đến năm Đệ Nhất…

Ôi cuộc đời mình thật có nhiều cái bất ngờ. Năm đó, vào lúc anh tưởng mình là một trong những người may mắn nhất còn lại thì tấm bi kịch của đời anh mới bắt đầu. Em đừng cười. Anh bị gia đình bắt đi… lấy vợ. Chuyện thật là khó tin nhưng nó đã xảy ra ở thế kỷ 20 này.

Một buổi sáng thứ bảy, ông nội dắt anh đi ăn sáng. Ngồi trong tiệm phở, ông anh đưa cho anh coi một tấm hình của một người con gái… xấu ỉn. Rồi ông bảo hai gia đình đã đồng ý cho bọn anh lấy nhau, ăn xong chở ông đi may quần áo cưới rồi lên nhà đàng gái để hai đứa làm quen nhau.

Mới đầu, anh tưởng ông nội anh đùa. Anh là con trai, có học thức và lại đang sống ở thế kỷ 20, đâu phải là cô Loan trong Đoạn Tuyệt của thế Kỷ 19? Ông anh lắc đầu bảo chuyện thật đấy, không đùa đâu. Anh phản đối dữ dội. Ông anh chẳng nói chẳng rằng, bỏ đũa đứng lên bảo: “Con cháu bất hiếu như thế thì tao đâm đầu vào xe tao chết đi chứ sống làm gì.” Rồi ông bỏ chạy ra ngoài, cứ đòi đâm đầu vào cái dòng xe cộ đang đi lại như mắc cửi ở đường Trương Minh Giảng. Anh phải can mãi mới được.

Tối về nhà, anh nói chuyện với bố, bố anh bảo: “Tao cực khổ suốt một đời nuôi mày khôn lớn, mày chưa làm gì đền đáp bây giờ lại cãi tao à? Nhà người ta cũng là chỗ môn đăng hộ đối chứ có phải cùi hủi gì đâu.” Anh bảo: “Con không dám cãi thầy nhưng con còn đang đi học, con chưa nghĩ đến chuyện ấy.” Bố anh lại bảo: “Lấy vợ về học cũng được. Ý tao đã quyết mày đừng có gàn dở.”

Mãi sau này anh mới biết là anh được “gả” để trừ đi số nợ nhà còn thiếu người ta hồi ở miền Bắc.

Anh buồn khổ đến sinh bệnh nhưng chẳng tìm được một lối thoát nào cho mình cả. Anh đành phải “vâng lệnh song thân” mà lấy vợ như người ta thường đề trong mấy cái thiệp cưới.

Lúc đứng làm lễ tế gia tiên, anh dâng hương mà không làm sao ngăn được hai dòng nước mắt cứ trào ra, anh sụt sùi khóc. (Vợ anh thấy thế liền bắt chước khóc theo, và còn khóc to hơn cả anh nữa.) Anh khấn rằng: “Ông bà tổ tiên linh thiêng về đây chứng giám cho con. Đạo làm trai của người Việt là Trung và Hiếu. Con đã vâng lệnh song thân lấy vợ để làm tròn chữ Hiếu. Lấy vợ xong, con sẽ đi lính để giữ trọn chữ Trung.”

Tiệc cưới to lớn, ai nấy mặt mày hả hê sung sướng. Riêng anh, anh có cảm giác như bài thơ của đời mình mới làm được hai câu, chưa kịp đọc lại thì bị một bàn tay vô hình nào xé toạc mảnh giấy ấy vất đi. Anh nhìn hai họ vui cười mà mơ ước được vui vẻ như họ. Tàn tiệc, bố anh đến bên anh, vỗ vai anh bảo: “Rồi mày sẽ quen đi con ạ.” Cho đến bây giờ, anh vẫn không thể nào quên được câu nói ấy.

Rồi anh đi lính. Rồi anh gặp em…

Mới đầu, gặp em, anh chỉ muốn đùa một tí với em nhưng không ngờ anh yêu em thật. Đây là lần đầu tiên anh khám phá ra sự tuyệt vời của tình yêu. Nhờ tình yêu mà thế giới này tồn tại được, thi sĩ làm thơ được, người thợ mộc đóng bàn ghế được, thầy giáo dạy học được v.v… Anh biết yêu trễ đến hơn 10 năm nhưng anh cảm ơn trời đã cho anh biết được mùi vị của tình yêu. Tuyệt vời lắm. Mỗi lần nhìn em, anh quên hết. Quên chiến tranh, quên hận thù, quên luôn cả tấm bi kịch của đời mình nữa để chỉ nghĩ đến em.

Diễm yêu dấu,

Bây giờ là 2 giờ sáng rồi. Anh vừa kể lại chuyện đời mình cho em nghe, không phải để chạy tội, không phải để em thương xót mà để chứng tỏ tấm lòng của. Dù tốt hay dù xấu thì anh cũng là nạn nhân. Anh hiểu trách nhiệm nặng nề của mình đối với em và anh đã có một quyết định dứt khoát: Xong chuyến công tác này trở về, anh sẽ dắt em về nhà nói với bố mẹ anh là anh là đã yêu em, đã có con với em và sẽ ly dị vợ anh để cưới em.

Em có tin không? Nếu bố mẹ anh không chịu, anh vẫn cưới em như thường. Sau 6 năm ở lính, anh học được một điều quan trọng: Con người ta chỉ sống có một lần, cho nên, đừng để bố mẹ hay bất kỳ ai sống giùm mình cuộc đời mình.

Thôi, anh dừng bút. Nhớ đừng khóc, đừng buồn và ráng ăn thật nhiều. Anh đi chuyến này là để kiếm một món quà vô giá tặng thành phố Ban Mê Thuột. Anh không tiện nói ra bây giờ nhưng anh sẽ nói khi anh trở về. Và anh sẽ về trước lễ Giáng Sinh. Anh hứa.

Yêu em,

Anh…

* * *

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú gấp tập hồ sơ lại để trên bàn họp rồi đứng lên tiếng gần tới tấm bản đồ sau lưng. Ngồi dài theo hai bên dãy bàn họp trước mặt ông là 4 ông tướng: Tư lệnh phó Quân đoàn, Tư lệnh Sư đoàn 22 và 23 bộ binh, ông tướng Tư lệnh Sư đoàn 6 Không Quân và khoảng 25 ông tá, toàn là sĩ quan tham mưu của quân đoàn II. Ai nấy nghiêm trọng nhìn lên chờ nghe tướng Phú.

Tướng Phú vỗ cây gậy chỉ huy trong tay rồi nói:

-Cách đây hơn tuần, tôi được thông báo của phòng II quân đoàn là họ phát hiện được một lực lượng khá đông quân số của các sư đoàn 320 và 968 ở phía Tây và phía Nam Pleiku, sư đoàn 10, sư đoàn 316 và sư đoàn 968 chính quy Bắc Việt ở mật khu Bù Gia Mập. Thêm vào đó, còn trung đoàn 3 cao xạ nặng, 1 trung đoàn pháo nặng và 1 trung đoàn xe tăng cũng ở khu Bù Gia Mập.

Cả phòng họp… nín thở. Nét ưu tư hiện rõ trên từng khuôn mặt của mỗi vị sĩ quan. Tướng Phú liếc nhìn đại tá Phùng rồi tiếp:

-Để xác nhận tất cả chuyện này, tuần trước, tôi cho Lôi Hổ mình nhảy xuống phía bắc của KonTum và xuống Bù Gia Mập để “tìm hiểu.” Anh em Lôi Hổ đã bắt được nhiều tù binh và đã xác nhận được tất cả chuyện này. Những tin tình báo mới nhất của phòng II cũng tái xác nhận chuyện này, và không ảnh của Không quân cũng xác nhận. Đây là một bất ngờ đối với tôi…

Tướng Phú ngừng nói và nhăn mặt lại. Rồi ông chỉ cây gậy vào mật khu Bù Gia Mập:

-Điều khó hiểu hơn cả là tại sao chúng nó lại ở đây?

Ông lại… nhăn mặt, lắc đầu nói tiếp:

-Đây là câu hỏi nằm trong gan trong ruột tôi suốt tuần lễ qua. Chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột hay đánh Quảng Đức? Hay chúng nó không đánh cả hai mà chỉ muốn lừa mình để đánh Pleiku? Nói về sự kiện thì chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột hay Quảng Đức, còn theo sự suy luận của tôi thì Ban Mê Thuột hay Quảng Đức chỉ là diện, còn Pleiku mới là điểm…

Tướng phú tiến trở lại bàn họp, bỏ cây can lên bàn, ngồi xuống mồi điếu thuốc:

-Bon. Tôi mời anh em tới đây để thảo luận vấn đề này. Vậy thì, anh em có ý kiến gì, cứ tự nhiên trình bày…

Chỉ chờ có thế là cả phòng họp có nhiều bàn tay dơ lên xin phát biểu liền. Ai cũng muốn cho tướng Phú thấy cái tài kinh luân của mình. Tướng Phú chỉ từng người một để cho ý kiến. Ai nói sao ông cũng gật đầu nhưng chỉ trả lời rất ít.

Khoảng một tiếng sau, tướng Phú dơ tay làm dấu cho mọi người im lặng. Ông đứng lên bục gỗ:

-Cám ơn các anh em đã bàn thảo thật sôi nổi và hào hứng. Bây giờ tôi quyết định như thế này. Trước hết, tôi nhờ Tham mưu trưởng quân đoàn gọi điện thoại cho tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, và tỉnh trưởng Quảng Đức bảo hai ông này ngày mai đem hết sơ đồ cùng kế hoạch phòng thủ mới nhất của tiểu khu mình lên đây gặp tôi. Tôi muốn biết rõ chi tiết từng viên đạn và từng trái mìn, từng vị trí của các đơn vị phòng thủ.

-Nhận rõ thiếu tướng.

Tướng Phú chỉ cây gậy vào bản đồ:

-Anh Thịnh, anh cho một thành phần của thằng 45 (Trung đoàn 45, sư đoàn 23 bộ binh) của anh hành quân lục soát từ chỗ này, phía Nam của Đức Lập về tới phía Bắc của Quảng Đức cho tôi. Đồng thời, cho một thành phần của thằng 53 (Tr/Đ 53/SĐ 23 BB) cũng hành quân lục soát từ Ban Mê Thuột về hướng Nam. Tướng Nhân Không Quân lo đầy đủ trực thăng để vận chuyện hai toán quân này nội trong ngày mai.

-Nhận rõ Thiếu tướng

-Nhận rõ.

-Anh Tài, anh cho thằng 21 Biệt Động của anh di chuyển gấp về án ngữ ở phía Nam Ban Mê Thuột, ngay chỗ này để làm trừ bị cho tụi 23 bộ binh.

-Nhận rõ…

-Anh Viễn, về phía Bắc KonTum, anh cho thằng…

Tướng Phú ra lệnh và chỉ thị một thôi không ngừng nghĩ. Đại tá Phùng nhìn ông Khiếu trao đổi một cái nhìn thỏa mãn. Cuối cùng, ông tướng có vẻ bắt đầu nghĩ tới Ban Mê Thuột rồi. Tuy nhiên, đại tá Phùng biết, ông tướng vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng. Ở địa vị ông, ông phải thận trọng để điều quân đi thăm dò như vậy. Tướng Phú ra lệnh “một phần của trung đoàn” tức là 1 hoặc 2 tiểu đoàn. Phần còn lại ông vẫn còn muốn bố trí để giữ Pleiku. Theo ông, chỉ có Pleiku mới quan trọng thôi, còn ngoài ra đều có thể cứu được hết. Kể cả Ban Mê Thuột, kể cả Quảng Đức. Tuy nhiên, Đại tá Phùng cùng Trung Tá Khiếu đã liệu trước việc này. Hai người sẽ có trưng bằng chứng cho tướng Phú biết về ý đồ của Cộng Sản.

Và tất cả chuyện quan trọng này đều nằm trong tay một sĩ quan Biệt Kích tài giỏi của ông: Đại Úy Huân. Phải, chỉ có Đại úy Huân mới cứu Ban Mê Thuột được.

* * *

Khi chiếc trực thăng chở toán của Huân đáp xuống bãi đậu của Chiến đoàn, chàng chẳng ngạc nhiên chút nào khi nhìn thấy, ngoài đại tá Phùng cùng toàn bộ ban tham mưu của chiến đoàn ra đón còn có cả có cả Thiếu Tướng Khấn, Tư lệnh phò Quân đoàn II và ít nhất là 3 ông Đại tá khác của Quân đoàn. Huân hiểu những gì nằm trong chiếc máy hình và những gì chàng ghi nhận được suốt 20 ngày qua trong mật khu Bù Gia Mập sẽ có một giá trị to lớn mà không ai có thể ước lượng được. Nhưng Huân không có thì giờ để suy nghĩ nhiều. Đầu óc chàng đang bận rộn để chuẩn bị cho bài thuyết trình về chuyến công tác vừa qua của chàng.

Huân thò tay ra bắt hai người phi công trực thăng rồi nhảy xuống. Đại Tá Phùng dơ tay đáp lễ cái chào của Huân rồi giới thiệu chàng với ông tướng và mấy sĩ quan cấp tá của Quân Đoàn. Huân chào họ và đón nhận những cái bắt tay vồn vã và những cái nhìn thán phục.

Một tay bắt tay Huân, tay kia nắm lấy vai chàng, Đại tá Phùng nói:

-Chúc mừng anh. Kết quả sơ khởi mà tôi nghe được rất là khích lệ, lát nữa mình nói nhiều.

Đại tá Phùng quay nhìn ông tướng Tư Lệnh Phó:

-Kính mời Thiếu tướng cùng phái đoàn vào Câu Lạc Bộ dùng cơm trưa, chừng nửa tiếng nữa chúng tôi sẽ có mặt ở phòng họp Chiến đoàn để thuyết trình cho Thiếu tướng cùng quý vị.

Phái đoàn ông tướng bước về phía Câu Lạc Bộ. Đại tá Phùng phóng lên chiếc xe díp, Huân leo lên ngồi bên cạnh, ông Trung tá Khiếu cũng leo lên ngồi phía sau. Đại tá Phùng chưa kịp đề máy xe thì Huân đã hỏi liền:

-Đại tá… cho xin điếu thuốc.

-À, xin lỗi, tôi quên… Anh giữ nguyên cả gói mà hút.

Huân nhận gói CAPSTAN còn đầy từ tay người chỉ huy trưởng, kẹp một điếu vào môi rồi chẳng cần khách sáo, thản nhiên bỏ nguyên gói thuốc vào túi áo mình. 20 ngày qua trong rừng rậm, không biết bao nhiêu lần Huân mơ ước chỉ được cầm một điếu thuốc lá trong tay như thế này.

Đại tá Phùng đưa thêm cho chàng cái bật lửa. Chiếc xe phóng vút đi. Ông Phùng cố gắng để giữ cho giọng mình được bình tĩnh để hỏi câu hỏi quan trọng nhất của chuyến công tác:

-Ban Mê Thuột hay Pleiku?

Huân mỉm cười, chưa thèm trả lời vội. Chàng hít thêm một hơi thuốc lá cho đầy hai buồng phổi, rồi mới đủng đỉnh trả lời qua làn khói:

-Ban Mê Thuột!

Đại tá Phùng nghiến răng sang số xe thật mạnh như muốn bộc lộ một sự giận dữ nào đó:

-Chắc không?

-Chắc như bắp Đại tá. Không trúng tôi nghĩ ăn lương chính phủ.

Đại tá Phùng tiếp tục nhăn mặt lại nhưng Trung tá Khiếu lại gật gù cái đầu:

-Quả đúng y như bọn mình dự đoán.

Chiếc xe díp thắng lại trước ban II của Chiến đoàn. Một người sĩ quan chạy vội ra như đã chờ đợi sẵn từ lâu. Huân đưa cho anh ta hai cái máy hình và cái túi đựng tài liệu cùng phim ảnh của chuyến công tác. Đại tá Phùng hỏi người sĩ quan:

-Nửa tiếng xong không?

Vị sĩ quan gật đầu:

-Thưa hình thì chúng tôi sẽ rửa được nhưng sẽ còn hơi ướt. Về tài liệu thì chúng tôi chỉ phối kiểm những tin quan trọng trước thôi.

-Tốt. Hình ướt cũng được. Phần tin tức thì giải trình được bao nhiêu đem hết sang tôi liền.

Chiếc xe lại lao vút đi. Huân mồi điếu thuốc thứ hai. Ba người sĩ quan bước vào phòng giải trình của Chiến đoàn. Đại tá Huân mở tủ lạnh, khui cho mỗi người một chai bia 33:

-Ăn mừng. Phải ăn mừng chuyến công tác này mới được.

Huân ngửa cổ tu một hớp bia. Tiên sư, trên đời sao lại có những thứ thức uống ngon đến như vậy nhỉ? Âu đây cũng là một phần thưởng trời dành cho những người lính như chàng. Ở trong rừng gần một tháng không được uống bia, không được hút thuốc, lúc cầm lại điếu thuốc hay chai bia mới thấy giá trị của nó và mới thấy được làm người, được… uống bia hút thuốc, được hít thở khí trời tự do quả thật là thú. Chàng lắc lắc chai bia trong tay rồi lại đưa lên cao. Lần này Huân uống hết sạch. Đại tá Phùng đưa thêm cho chàng một chai nữa.

“Cám ơn Đại tá” Huân nói rồi từ từ tiến tới tấm bản đồ treo trên tường, cầm cây thước trong tay để chuẩn bị phần giải trình nhưng ông Phùng đã gạt đi:

-Khỏi, cứ ngồi xuống đây, chờ lát nữa sang thuyết trình với ông Tướng anh trình bày cặn kẽ luôn cũng được.

Xong ngay, đại tá muốn vậy thì đỡ mất thì giờ với phần thủ tục. Ông chiến đoàn trưởng đi thẳng vào vấn đề:

-Tóm tắt, chuyện gì làm anh quả quyết là chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột?

-Sa bàn.

-Sa bàn thành phố Ban Mê Thuột?

-Đúng. Chỗ chúng tôi nằm là khu tập trung không phải của tụi 316 mà của trung đoàn 95 B.

Đại tá Phùng nhìn Trung tá Khiếu. Ông Khiếu gật đầu như xác nhận sự xuất hiện đó là đúng.

-Chúng nó tập trận liên miên cả tuần lễ. Riêng tiểu đoàn gần tôi nhất thì chúng nó thực tập đánh cổng trước Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.

-Sao anh biết đó là cổng trước của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23?

-Tôi ở Ban Mê Thuột này gần năm rồi. Đường đi vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 có cái cái công viên, bên cạnh công viên là cái nhà thờ Quân Đội… Chúng nó có cả hình dáng cái nhà thờ này. Lát nữa hình rửa xong đại tá sẽ thấy…

-Về cái sa bàn của thành phố, anh thấy ở đâu?

-Trong phòng họp của bộ chỉ huy Trung Đoàn. Tôi chụp được hình ảnh đầy đủ, lát nữa đại tá sẽ thấy.

-Ngoài ra anh còn biết gì nữa không?

-Chúng tôi phát giác và nghe lóm được đường dây điện thoại giữa trung đoàn và sư đoàn, tôi có ghi lại nhiều chi tiết. Lát nữa phòng II đưa qua trung tá sẽ thấy…

Đại tá Phùng thở dài, mồi điếu thuốc. Ông quay sang Trung Tá Khiếu:

-Anh Khiếu có gì hỏi không?

-Thưa có!

-Mời Trung Tá tự nhiên…

-Trước hết, tôi xin cám ơn và chúc mình anh về chuyến công tác đầy cam go. Chiều nay tôi và đại tá Phùng sẽ tháp tùng tướng Khấn về Pleiku để gặp tướng Phú liền. Thực ra bọn tôi đã nghi ngờ chuyện này từ lâu, nhưng kẹt một cái là ông tướng Phú… Anh biết, ông Tướng có vẻ không tin tưởng những tin tức tình báo của chúng ta đưa lên lắm… Ngoài những gì anh nói, anh nghĩ anh có tấm hình hay bằng chứng nào để tôi có thể thuyết phục được tướng Phú không?

Tự nhiên, Huân bỗng nỗi giận. Mình và lính vừa lội vừa nằm gần đúng 20 ngày trong lòng đất địch, sự sống như treo chỉ mành hằng ngày để khám phá ra cái tin tức quý giá này đem về. Nhưng như vậy chưa đủ, ở trên còn muốn mình phải tìm cách chứng mình hay thuyết phục họ. Chuyện đánh Việt Cộng là chuyện của ai nhỉ? Khôi hài thật. Chẳng khác gì một nhà buôn ngọc, sau khi tìm ra viên ngọc quý, không đem bán mà lại đem cho, nhưng trước khi cho người ta còn phải mất công thuyết phục người nhận ngọc đó là viên ngọc thật…

Chàng nhìn Trung Tá Khiếu:

-Thưa Trung tá, tôi được giao một bổn phận và đã làm xong, những gì còn lại như vấn đề ở trên có tin hay không không thuộc thẩm quyền của tôi.

Trung tá Khiếu gật gù cái đầu ra dấu thông cảm.

Ngay lúc ấy có tiếng gõ cửa rồi vị sĩ quan phòng phim ảnh của Chiến đoàn xuất hiện với một núi hình ảnh trên tay. Mặt mày anh ta vừa hớn hở vừa… tái mét, nhìn đại tá Phùng nói nhưng giọng lạc đi vì xúc động:

-Tụi mình phải cho vợ con đi khỏi Ban Mê Thuột này càng sớm càng tốt Đại Tá ơi. Em coi mấy tấm hình chụp em muốn lạnh gáy…

** *

Huân và Diễm tối hôm ấy lại trở về ngồi trên chiếc ghế đá công viên của thành phố Ban Mê Thuột. Ngay trên chiếc ghế cũ mà hai người đã ngồi ngày mới quen nhau. Chỉ khác hơn là, lần này họ ngồi sát nhau, cùng nhìn về hướng ánh đèn sao chổi sáng lừng từ cái tháp chuông của Nhà Thờ Quân Đội ở bên kia đường chiếu ra…

Tự nhiên, Huân hỏi:

-Em biết nhà thờ đó tên là gì không?

-Không!

-Vậy là em thua anh rồi. Đó gọi là nhà thờ Quân Đội.

-Ừ. Anh đi đạo lúc nào mà rành quá vậy?

-Không đi nhưng anh biết. Em biết đằng sau ánh đèn sao chổi đó là gì không?

Diễm co ro vì lạnh, áp người thật chặt vào lưng Huân:

-Không…

Huân lại nhớ đến cái sa bàn của Việt Cộng ở trong mật khu Bù Gia Mập. Theo đúng kế hoạch, khu vực này được giao cho trung đoàn 95 B và một đại đội xe tăng. Sau cỡ 5 ngàn trái pháo, chúng nó sẽ đi diễn hành trên quốc lộ mà vào, làm một mũi dùi chính đánh thẳng vào đây để nuốt gọn Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Huân nhăn mặt:

-Là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.

Diễm cười rất vô tư:

-Tưởng chuyện gì, anh thì lúc nào cũng hết Bộ Tư Lệnh rồi đến Bộ Chỉ Huy… Ở bên em anh tạm quên mấy thứ đó đi có được không?

Huân đốt điếu thuốc lá, lòng se lại khi nghĩ đến vùng đất hiền hòa này sẽ trở thành một bãi chiến trường đẫm máu nay mai. Chàng thấy thương cho Diễm cũng như cho tất cả những người dân của cái thành phố này.

Diễm cầm tay Huân:

-Quên chuyện đó đi anh, anh viết thư hay lắm, cứ như văn sĩ.

Huân cười:

-Ở gần một người đẹp như em mà không trở thành văn sĩ thì thật là bất lịch sự và ngu xuẩn. Mà này, nói thật đi, sáng hôm ấy em có khóc không?

-Có.

-Anh cũng đoán vậy.

Rồi Huân đứng lên:

-Em muốn đi bách bộ một lát không?

-Đi thì đi.

Hai người đi bên cạnh nhau. Diễm cúi đầu đến bước, quàng hai tay qua tay Huân. Huân thọc hai tay vào túi, cứ ngước mặt lên nhìn cái sao chổi làm bằng mấy trăm cái bóng đèn chạy dài từ trên tháp chuông xuống. Tới cuối công viên, Huân rủ:

-Mình đi bộ qua nhà thờ chơi..

-Ý kiến hay!

Vừa băng qua đường, Huân nghe được tiếng tập hát từ trong nhà thờ vọng ra: “Cao cung lên, khúc nhạc Thiên Thần Chúa…” Huân hỏi:

-Mau quá, tối ngày mốt là Noel rồi nhỉ?

Huân dừng bước trước hang đá Đức Mẹ trước nhà thờ, hỏi Diễm:

-Em biết cầu kinh không?

Diễm lắc đầu:

-Không nhưng trông bà ấy đẹp và hiền hậu ghê nhỉ? Em nghĩ ai đến cầu bà này điều gì bà ấy cũng cho hết. Bả hiền quá.

-Vậy thì em cầu thử đi.

-Anh phải cầu với em.

-Ừ. Nhưng phải bỏ tay anh ra và đứng nghiêm trang lại, chắp lên ngực như cái ông đang đứng đàng trước em kia kìa.

Hai người chấp tay. Diễm lẩm bẩm mấy lời cầu rồi cúi đầu vái mấy cái. Huân cười, bảo:

-Đừng có vái, người ta cười. Ở đây em thấy có ai vái đâu?

Diễm vẫn tiếp tục vái và nói:

-Ai cười mặc họ, Diễm muốn tỏ lòng tôn kính. Cầu mà không vái thì mất linh đi.

Hai người đi dạo một vòng rồi trở về công viên. Huân hỏi:

-Lúc nãy em cầu gì vậy?

-Cầu cho hai đứa mình được nên duyên vợ chồng. Em lo quá.

Huân cười:

-Muốn nên duyên vợ chồng thì em phải cầu cho vợ anh nó… trúng gió chết.

-Anh chỉ nói bậy. Những gì anh nói trong thư có thật không anh?

-Thật, thật lắm.

-Còn anh, lúc nãy anh cầu gì vậy?

-Cũng cầu như em nhưng anh có thêm một lời cầu đặc biệt…

Huân bỏ lửng câu nói, đứng lại cầm tay Diễm:

-Diễm, em nghe cho kỹ đây. Sau Noel, anh muốn em và má dọn hết đồ đạc về Nha Trang ở tạm một thời gian…

Diễm sững sờ:

-Sao vậy anh?

Huân kéo Diễm ngồi xuống ghế, nói thật chậm, thật rõ ràng và thật tha thiết:

-Những gì anh sắp nói, em phải thề giữ tuyệt đối bí mật.

-Mà chuyện gì vậy… rồi, em hứa

-Em có biết chuyến đi công tác 20 ngày vừa rồi của anh không?

-Sao?

-Anh biết được một chuyện rất quan trọng. Việt Cộng đã đem 4 sư đoàn vào đây để chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột.

Một cái tin động trời như vậy, cái tin làm cho cả quân đoàn II từ ông tướng Phú xuống đến anh lính hạng bét mất ăn mất ngủ mà với Diễm thì chẳng có nghĩa lý gì. Đánh nhau thì hai bên ngày nào lại chẳng đánh, sao lại lo sợ vậy nhỉ? Giọng Diễm vẫn tỉnh bơ, chẳng có chút gì hốt hoảng hay sợ hãi:

-4 sư đoàn là nhiều lính không anh?

Huân lắc đầu chán nản. Hình như lúc trời sinh ra đàn bà, ngài quên nhét vào đó một chút óc nhà binh. Huân kiên nhẫn giải thích:

-4 sư đoàn là cỡ vài chục ngàn thằng lính bộ đội. Mỗi thằng một cây AK. Khi vào đây rồi, chúng nó sẽ tàn phá, sẽ bắn giết, sẽ cày nát cái thành phố thơ -ộng này ra như cám hoặc trước tết hoặc sau tết.

Diễm tròn mắt:

-Anh nói thật?

À, thế này thì có ép phê rồi. Huân tiếp tục:

-Chưa bao giờ thật bằng. Em tưởng tượng đi, hai chục ngàn thằng lính vào đây, mỗi thằng chỉ cần bắn một phát thôi thì Ban Mê Thuột cũng đủ tan hoang. Đó là chưa nói tới xe tăng, chưa nói tới đại pháo… Vì vậy cho nên lời cầu đặc biệt của anh lúc nãy là cầu cho Ban Mê Thuột, cầu cho thành phố yêu dấu này. Cầu cho ông tướng Phú được sáng suốt để đỡ trận này. Nhưng quan trọng nhất là em và mẹ phải đi khỏi nơi đây. Đi liền càng sớm cáng tốt. Đang thai nghén như em, ở lại đây không tiện chút nào hết.

Giọng của Diễm trở nên hơi gay gắt, nhưng Huân chưa để ý đến:

-Anh muốn em đi. Nhưng còn chuyện thành hôn của hai đứa mình như anh nói trong thư thì thế nào?

-Mình không còn thì giờ nữa! Nội trong tuần tới, em và má phải thu xếp cho xong đồ đạc và dọn đi liền.

Nói xong thì Huân đọc ngay được vẻ bất mãn trong đôi mắt Diễm. Hình như đã có chút nước mắt trong đó rồi. Giọng nàng như cố giấu một nỗi chua xót trong lòng:

-Em thì sao cũng được, nhưng má em chắc không chịu đi đâu…

Huân nắm tay Diễm:

-Em phải bắt má đi.

Diễm hất tay Huân ra, quay nhìn đi nơi khác để che giấu một giọt nước mắt:

-Má em cứng đầu lắm…

Huân lại nắm tay Diễm. Diễm lại hất tay chàng ra. Rồi quay lại nhìn Huân, hai hàng nước mắt chảy dài trên má:

-Anh Huân, nếu anh đổi ý, không muốn cưới Diễm nữa thì cũng được, anh cần gì phải bày vẽ 3 sư đoàn với 4 sư đoàn Việt Cộng làm gì. Chẳng thà anh nói thật đi, Diễm thông cảm anh. Diễm tha thứ cho anh. Dù sao, Diễm cũng chỉ là người đến sau… Diễm biết thân phận mình, Diễm không có quyền…

Huân tròn cặp mắt lại:

-Diễm, em nói gì vậy?

Diễm nghẹn ngào, vừa nói vừa khóc:

-Diễm nói anh muốn cưới Diễm thì cưới, còn không thì cứ việc đi đi, không ai giữ anh đâu. Làm gì phải đem Việt Cộng vào đây mà dọa nhau…

Rồi nàng đứng dậy bỏ đi mau như chạy. Huân bước mau theo và thấy cổ họng mình muốn tắt nghẹn. Trời cao có mắt về đây chứng giám cho thằng Huân này.

Huân bắt kịp Diễm, níu lấy tay nàng. Diễm lại hất ra. Nước mắt tiếp tục chảy đầm đìa trên mặt nàng. Huân khổ sở:

-Diễm, em phải hiểu. Anh thương em nhất trên đời này.

-Tôi không cần. Anh về với vợ anh đi. Anh đi đi, và đừng bao giờ trở lại đây gặp tôi nữa. Con tôi, tôi sẽ nuôi được. Nếu tôi đẻ con gái, tôi sẽ cấm nó tuyệt đối không được quen với lính, không được yêu lính, nhất là thứ lính… Lôi Hổ… con cọp bạc tình bạc nghĩa như anh…

-Diễm, anh năn nỉ em… Em nghĩ lại, lòng anh, em biết…

-Tôi không cần thứ lòng đó. Anh bảo anh đi công tác 20 ngày. Anh về Sài Gòn với vợ anh 20 ngày chứ công tác gì. Anh sợ trách nhiệm, sợ nuôi con, muốn dứt tình thì cứ nói, việc gì phải đem Việt Cộng vào tận Ban Mê Thuột để dọa mẹ con tôi…

Huân thấy trời đất quay cuồng chung quanh mình. Chàng đứng sững người lại làm như nếu bước thêm một bước nữa thì sẽ nhào xuống liền tức thì. Rồi đột nhiên, chàng nổi giận. 20 ngày công tác đói rét nguy hiểm trong rừng, một trái tim rướm máu vì tình yêu, một tuổi thơ đầy dẫy bi kịch và chưa hề được yêu, được sống như một người bỗng bùng dậy trong lòng người đại úy Lôi Hổ trẻ tuổi…

Huân chạy theo nắm lấy tay Diễm kéo lại thật mạnh. Diễm mất đà khựng người lại, cả cánh tay đau nhói lên vì bị cú kéo ngược bất ngờ quá đau. Nàng kêu lên một tiếng kêu đau đớn, loạng choạng mất thăng bằng. Huân đỡ được nàng ngã vào lòng mình. Chàng giữ chặt lấy Diễm.

Nhìn những giọt nước mắt trên mặt Diễm, lòng Huân lại mềm ra. Diễm dùng hết sức để xô Huân ra và đay nghiến:

-Anh cứ việc giết tôi đi. Sao anh không giết tôi đi? Anh giết người quen rồi, anh cứ việc giết tôi đi…

Rồi Diễm khóc lên nức nở. Huân ghì chặt lấy Diễm, lắp bắp:

-Không, Diễm, anh yêu em, anh yêu em… Em đừng nói thế… anh yêu em… Anh xin lỗi…

Diễm toan đay nghiến nữa nhưng bỗng im bặt khi nhìn thấy những giọt nước mắt long lanh trong mắt và trên má chàng. Nàng ngạc nhiên lắm. Không ngờ ông đại úy dày dạn phong sương này cũng khóc được.

Huân ôm lấy Diễm, tha thiết nói như một người trong tận cùng của sự thống khổ:

-Diễm, anh yêu em… Anh yêu em… Anh xin lỗi…

Diễm không trả lời, luồn tay vào tóc Huân, kéo đầu chàng xuống, đặt lên đôi mắt u buồn ướt lệ ấy một cái hôn.

Nàng biết, biết từ lâu rằng Huân yêu mình thật…

* * *

Tướng Phú ngừng nói. Phòng họp Bộ Tham Mưu Quân Đoàn im lặng như tờ. Ông nhìn cả phòng họp một lúc rồi tiếp tục:

-Như vậy, tất cả những thắc mắc của tôi đã được giải đáp thỏa đáng… Và câu trả lời đã trở nên rõ ràng như ban ngày: Chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột…

Đến đó, tướng Phú ngừng nói và bỗng bật lên một cơn ho sụ sụ. Lát sau, Tướng Phú lại hỏi khi dứt cơn ho:

-Có ai thắc mắc gì hay có điểm gì không đồng ý với tôi không…

Không có tiếng trả lời.

-Bon, bây giờ tôi có thể an tâm để dồn hết sức lực chuẩn bị cho chiến trường Ban Mê Thuột. Tôi muốn phòng III trình cho tôi một kế hoạch phòng thủ toàn diện thành phố Ban Mê Thuột trong vòng 24 giờ đồng hồ. Kế hoạch các anh em làm, phải trả lời và đi sâu những chi tiết sau đây cho tôi:

Thứ nhất, mình có cách nào để ngăn chặn cuộc tổng tấn công điên cuồng này trước khi nó bắt đầu hay không? Hãy nghĩ đến lực lượng và những ưu điểm mà mình có trong tay, hoặc bằng Không quân, hoặc bằng bộ binh, hoặc bằng Pháo v.v… Hoặc giả, mình có thể kiếm một cái vùng giao tranh nào khác ngoài Ban Mê Thuột để ép chúng nó nhận làm chiến trường không?

Thứ hai, nếu không ngăn chặn được, mình phải bố trí lực lượng như thế nào để chuẩn bị đón đánh và tiêu diệt được 4 sư đoàn bộ, 2 trung đoàn địa phương, 1 trung đoàn pháo, 1 trung đoàn cao xạ nặng, 1 trung đoàn xe tăng và một tiểu đoàn đặc công của chúng. Anh em chớ quên một yếu tố quan trọng là bây giờ lá bài nằm trong tay mình. Mình đã biết đâu là điểm đâu là diện. Yếu tố bất ngờ đã mất, chúng nó đưa vào bao nhiêu thì mình sẽ nướng hết mấy nhiêu.

Thứ ba, tôi sẽ xin tăng viện từ Sài Gòn, anh em nghiên cứu cho tôi mình bao nhiêu lực lượng. Theo tôi nghĩ, mình phải được tăng cường ít nhất là 4 lữ đoàn Dù hoặc TQLC đang nằm nghỉ mát ở miền Trung. Các lực lượng trừ bị tinh nhuệ này hoặc sẽ làm búa tấn công chúng nó trước, hoặc sẽ làm đe để chận đường rút của chúng. Về Không Quân, tôi sẽ xin tăng cường 2 phi đoàn trực thăng và 2 phi đoàn khu trục. Tướng Nhân lo chỗ ăn ở cho 4 phi đoàn này và trình cho tôi một kế hoạch để sử dụng những lực lượng tăng phái này.

Thứ tư, quan trọng nhất, Việt cộng đã biết đánh nghi binh suốt mấy tháng qua để dụ mình thì mình cứ để cho nó… dụ. Đại tá Long Công binh cho tăng cường xây thật nhiều công sự phòng thủ ở Kontum, và anh Tài, anh cho 2 liên đoàn Biệt Động của anh cứ tiếp tục hành quân lục soát dữ dội ở phía bắc Dakto để cho chúng nó tưởng rằng nó dụ được mình. Tất cả các lực lượng đang hành quân lục soát ở phía Nam Ban Mê Thuột của Sư Đoàn 23 cho rút về hết để chờ lệnh mới.

Thứ năm, trong vòng một tuần lễ, các tiểu đoàn Địa Phương Quân của các tiểu khu Pleiku, Bình Định, Ninh Thuận và Bình Thuận sẽ trở thành lực lượng chính để bảo vệ lãnh thổ mình. Tôi sẽ đưa tất cả quân số của hai sư đoàn 22 và 23 và các liên đoàn Biệt Động Quân lên Ban Mê Thuột để chuẩn bị cho trận đánh sắp tới.

Thứ sáu, anh Vân cho bí mật thiết lập một bộ chỉ huy tiền phương của Quân Đoàn tại thành phố Ban Mê Thuột cho tôi. Chính tôi sẽ về đó để chỉ huy trận này…

Tướng Phú dừng lại ở đây một chút, rồi ông tiếp tục, mắt long lên:

-Mình sẽ thiết lập một lò thịt sống để chờ chúng nó. Mất 20 năm nhưng cuối cùng tôi vẫn trả thù được trận Điện Biên Phủ…

Ngồi xen lẫn với khoảng chừng 30 ông tá và 4 ông tướng ở phía dưới, mặt mũi Đại tá Phùng cùng Trung tá Khiếu trở nên rạng rỡ. Riêng đại tá Phùng, trong đầu ông vừa nẩy ra một ý nghĩ táo bạo khác. Khi lập kế hoạch, ông sẽ đề nghị tướng Phú cho Lôi Hổ nhảy xuống phía sau khu tập trung quân để hướng dẫn phi cơ oanh kích. Chỉ có Lôi Hổ bám sát chúng nó thì mới oanh kích chính xác được. Và không phải oanh kích ngay bây giờ mà chờ cho đến khi chúng nó sắp sửa tấn công, khi chúng nó tập trung quân số lại mới làm. Một trái bom thả ở giờ phút này có giá trị bằng mười trái bom lúc bình thường…

Buổi họp hôm ấy chấm dứt vào lúc 7 giờ chiều ngày 24 tháng 12 năm 1974. Sau buổi họp là buổi dạ tiệc và khiêu vũ Giáng Sinh do Quân Đoàn II khoản đãi. Tất cả mọi người,từ ông tướng Phú cho đến ông đại úy Quận Trưởng, ai nấy đều hả hê vui vẻ. Riêng Tướng Phú thì khỏi nói. Ông không ở lâu trong một nơi ngộp khói thuốc được nhưng chưa bao giờ có ai nhìn thấy ông vui vẻ như vậy kể từ lúc về nắm Quân Đoàn II. Trước khi ra về, ông đến vỗ vai đại tá Phùng:

-Toa hay lắm, moa cám ơn toa rất nhiều.

-Thưa Thiếu Tướng, tôi chỉ làm bổn phận.

-Très bien, xong trận này thì công của toa nhiều nhất đấy. À, đại úy Huân, moa định móc Thiếu Tá cho nó, toa nghĩ thế nào?

-Trình thiếu tướng, tôi cũng tính đề nghị với thiếu tướng như vậy. Nếu Thiếu tướng móc Thiếu tá cho Đại úy Huân, đề nghị thiếu tướng cho mỗi người trong toán lên một cấp luôn.

-Coi như xong, moa sẽ nhớ chuyện này. Thôi ở lại chơi vui vẻ… Joyeux Noel…

-Joyeux Noel Mon Général…

Đại tá Phùng đứng nghiêm chào. Tướng Phú cùng người sĩ quan tùy viên bước ra khỏi phòng. Cây gây chỉ huy trong tay ông ta đánh lên đánh xuống một cách trẻ trung và vui vẻ…

* * *

Sau chuyến công tác thành công, Huân được thưởng một tuần phép vào dịp lễ Giáng Sinh. Trước khi chia tay lên đường đi Pleiku họp với tướng Phú, đại tá Phùng gọi Huân vào văn phòng chúc mừng, vẻ mặt ông hân hoan, phấn khởi:

-Tướng Phú đã đồng ý với tụi mình rồi. Như vậy là Ban Mê Thuột sẽ giữ được. Công của anh trong vụ này sẽ không nhỏ.

Huân cũng không giấu được vẻ vui sướng trên nét mặt:

-Đó là công chung của chiến đoàn chứ đâu phải riêng gì tôi Đại tá. Nhưng nếu trời còn thương nước mình thì Ban Mê Thuột sẽ vững như bàn thạch…

Đại tá Phùng chợt nhìn Huân đăm đăm. Làm gì mà Huân không nhận ra được ánh mắt này? Chàng cười:

-Đại tá sắp có công tác mới cho tôi?

-Anh đeo đại úy mấy năm rồi?

-Hơn một năm nhưng thực thụ thì mới 6 tháng. Đại tá muốn thay lon cho tôi?

-Anh… dám đeo lon Thiếu tá không?

-Tôi nhát lắm nhưng nếu có ai gắn cho mình thì cũng làm gan đeo thử.

Hai người bật cười lên. Đại tá Phùng lại tiến tới tấm bản đồ, chỉ vào khu Bù Gia Mập:

-Đi phép về, anh cùng với đại úy Tú trưởng ban III Chiến Đoàn soạn cho tôi một kế hoạch nhảy liên tục, bám thật sát vào chúng nó. Nếu biết được vị trí đóng quân chính xác, Không Quân có thể tiêu diệt gọn một nửa lực lượng của chúng trước khi chúng bắn được một phát súng. Phần còn lại để dành cho bộ binh mình. Ông tướng Phú đang nấu sẵn một cái chảo nước sôi lớn để chờ chúng nó vào. Mình sẽ luộc sống không còn một mạng.

Huân gật đầu phấn khởi:

-Coi như xong đại tá, nghề của bọn tôi mà.

-Tốt. Bây giờ, anh về nghỉ Noel cho vui vẻ… Có lẽ tôi sẽ bị kẹt khoảng 1 tuần lễ ở Pleiku để thiết lập kế hoạch phòng thủ Ban Mê Thuột, khi anh hết phép trở về chắc tôi cũng về tới, vào văn phòng gặp tôi để nhận chỉ thị liền. Mình không có nhiều thì giờ.

Huân gật gù cái đầu.

-Anh ráng lợi dụng kỳ phép này để dưỡng sức vì khi trở lại, chúng mình sẽ có rất nhiều việc để làm. Cho đến khi nào dập xong tụi nó, mình ngủ chưa nhắm mắt được.

-Tôi hiểu Đại tá!

Đại tá Phùng lờ luôn cái vụ thay lon và Huân cũng chẳng muốn nhắc đến. Không phải Huân… chê cái bông mai bạc nhưng đầu óc chàng lúc ấy đang bị xâm chiếm bởi một chuyện quan trọng hơn: Làm thế nào để bám sát chúng nó và chỉ điểm chính xác cho Không quân tiêu diệt. Tiêu diệt trước khi chúng mò được tới Ban Mê Thuột…

Một tuần lễ phép nhân ngày Giáng Sinh trôi qua êm ả. Huân và Diễm sống với nhau những ngày thật đầm ấm, hạnh phúc. Cuối cùng thì chàng cũng thuyết phục được Diễm rời khỏi Ban Mê Thuột sau lễ Giáng Sinh để tránh cuộc binh đao sắp sửa xảy ra. Diễm chịu đi nhưng mẹ nàng nhất định ở lại. Diễm có nhiều bạn bè ở Nha Trang nên việc “tị nạn” cũng coi như một cuộc nghỉ mát nhỏ…

Sáng hôm hết phép, Huân lái xe díp vào trại. Diễm ở nhà lo sắp xếp và dọn dẹp đồ đạc. Hai người sẽ sống với nhau một đêm cuối cùng trước khi Huân đưa Diễm lên trực thăng về Nha Trang.

Buổi sáng, Diễm về ở nhà với mẹ nàng. Mẹ đưa cho Diễm mấy lượng vàng để phòng thân. Buổi chiều, Diễm về nhà tiếp tục lo thu dọn đồ đạc…

3 giờ chiều, Diễm vừa nhét xong bức hình của Huân vào vali thì có tiếng xe thắng gấp ngoài cửa. Diễm ngạc nhiên nhìn ra và thấy Huân cùng một người sĩ quan Lôi Hổ khác từ trên xe bước xuống…

Nhìn hai người, Diễm ngạc nhiên đến độ sợ hãi vì nàng chưa bao giờ thấy Huân hung dữ như vậy. Cả người bạn chàng cũng vậy. Mắt chàng ngầu đỏ, tóc tai rối bù.

Như thường lệ, Diễm đứng trên gác nhìn xuống, mỉm cười và vẫy tay chào nhưng Huân nhìn thấy mà không thèm đáp lễ. Diễm mơ hồ đoán ra rằng người yêu mình đang bị một chuyện gì bực mình lắm…

Lúc hai người xuống xe bước vào thì có con mèo đen phóng lên chiếc xe díp ngồi. Con mèo này vẫn đến như thường lệ nhưng không hiểu sao hôm nay Huân lại thấy ngứa mắt. Chàng nhìn thấy thì liền đứng lại, chửi thề, bảo:

-Đù mẹ cái giống mèo đen này thật là xúi quẩy, không bắn mày thì để làm gì?

Huân quay lui. Nhanh như cắt, một tay chàng chụp cổ con mèo đưa lên cao, tay kia móc cây Colt .45 trong bụng ra kê vào giữa hai con mắt xanh lè của con vật bóp cò oành một phát. Máu óc và sọ con mèo đen bay tuốt lên cao rồi rớt lả tả xuống đường.

Từ trên lầu, Diễm rú lên một tiếng thảm thiết…

Hai ba người hàng xóm nghe tiếng súng nổ, bung cửa chạy ra. Một trong những người đó là một gã cảnh sát, mặt mày coi khó chịu thấy rõ. Gã đang mặc áo thun liền quay trở vào khoác chiếc áo cảnh sát vào rồi hùng hổ xông ra, tay chỉ, miệng nói:

-Anh… Đại úy kia, sao lại nổ súng bừa bãi thế? Anh tưởng đây là đâu? Tôi phải gọi Quân Cảnh mới được…

Người bạn của Huân rít lên một tiếng, toan xông tới nhưng Huân làm dấu cản hắn lại. Chàng xoay người đưa mắt nhìn người cảnh sát.

Cái nhìn của một ông Đại Úy Lôi Hổ, một tay còn cầm con mèo đen máu nhỏ từng giọt, tay kia còn thủ cây Colt .45 quả có thần lực đặc biệt. Chỉ một cái nhìn đơn giản vậy thôi mà gã cảnh sát đã mất hết hồn vía, mặt mày tái mét.

Dưới cặp mắt thất thần của gã, chàng lù lù tiến tới phía gã, chẳng nói chẳng rằng. Gã cảnh sát lúc ấy mới biết mình vừa hơi… quá lời, đưa cặp mắt tuyệt vọng nhìn Huân như chờ đợi hình phạt sắp đổ xuống đầu mình.

Cũng chẳng thèm nói năng, Huân nhét con mèo đẫm máu vào tay gã ta rồi đứng yên… nhìn. Gã kia sợ quá, không nói năng gì được, mặt méo đi thảm hại. Huân đưa nguyên cái bàn tay còn dính đầy máu mèo chùi vào ngực gã, rồi quẹt mấy cái lên mặt:

-Tập ăn thịt mèo cho quen đi là vừa, mai mốt Việt Cộng nó vào đây thì cả thành phố này phải ăn thịt mèo.

Rồi Huân quay gót, nhét cây súng vào bụng mình, bình thản tới chỗ rô bi nê rửa tay.

Huân mở cửa phòng bước vào. Diễm đứng nhìn sững Huân và không biết phải nói gì. Từ ngày quen nhau, nàng chưa bao giờ nhìn thấy Huân hung dữ như vậy. Nhưng nhìn ánh mắt ngầu đỏ đầy uất hận của hai người sĩ quan trẻ, Diễm biết họ vừa gặp phải một chuyện gì rất bực mình hay đau đớn.

Huân chỉ nhìn Diễm chứ không cười, không chạy đến hôn nàng như mọi lần:

-Đây là Tú, bạn anh.

-Xin chào chị.

-Không dám, chào anh.

Rồi hai người ngồi xuống bàn. Đại úy Tú lấy chai Martel cầm theo ra, mở nắp. Huân lật ngửa hai cái ly.

Hai người lính trẻ uống rượu trong im lặng, bốn con mắt ngầu đỏ, bắn ra những tia lửa tuyệt vọng và uất hận. Hết ly này đến ly kia, không ai nói với ai một lời nào.

Diễm ngồi nhìn hai người một lúc, đứng lên bảo “Để em đi mua khô mực” rồi bỏ xuống nhà. Huân không thèm nói năng gì. Nàng xin lỗi người cảnh sát lúc nãy rồi ra đầu hẻm mua mấy con khô, một ít nước đá.

Lúc Diễm trở về thì chai rượu đã gần cạn. Diễm nướng mấy con khô mực. Tự nhiên, nước mắt nàng ứa ra. Nàng đưa vạt áo lên chùi nước mắt rồi bảo “Khói quá”.

Diễm lấy cán dao đập mấy con khô rồi bỏ vào đĩa, để trên bàn. Lúc ấy Huân mới chịu mở miệng, nhìn nàng:

-Em ngồi đây, anh có chuyện muốn nói.

Nhà chỉ có hai cái ghế, Diễm đành ngồi trên giường.

-Ngày mai em đi?

-Vâng.

-Em có quen ai ở Sài Gòn không?

-Có, bên nội. Sao anh hỏi vậy?

Huân thở dài:

-Anh nghĩ em về Nha Trang rồi phải tìm đường về Sài Gòn luôn.

Diễm hốt hoảng:

-Sao vậy anh?

Huân lắc đầu, nói như khóc:

-Ông tướng Phú hủy bỏ kế hoạch phòng thủ Ban Mê Thuột rồi. Vậy là xong. Thành phố này sẽ chìm trong cơn Đại Hồng Thủy của máu lửa và bom đạn. Ban Mê Thuột sẽ chẳng bao giờ còn như xưa nữa.

-Nhưng tại sao lại hủy bỏ? Hủy bỏ hồi nào?

Huân lắc đầu tính không nói nhưng không hiểu sao lại trả lời:

-Hai ngày sau Noel… Một phái đoàn của dinh Độc Lập gồm báo chí và chuyên viên tình báo Mỹ của DOA lên Pleiku thăm ông Phú. Nhà báo Phạm Xuân Ẩn, “cố vấn đặc biệt” của Tổng Thống và các “thiên tài tình báo” Mỹ thuyết phục được tướng Phú là Việt cộng sẽ không đánh Ban Mê Thuột mà đánh Pleiku…

Rồi Huân lại lắc đầu, nâng ly rượu lên uống cạn. Tú rót thêm rượu vào ly. Diễm còn muốn hỏi nữa nhưng hình như Huân không còn muốn nhắc đến chuyện ấy nữa. Chàng bảo:

-Em phải về Sài Gòn. Nếu mẹ không đi thì em về một mình. Đây là cái địa chỉ nhà anh, em nhớ lấy.

Diễm đứng dậy tới sát bên Huân:

-Còn anh thì sao?

-Nếu trời còn thương, mình sẽ gặp nhau…

Diễm gào lên, đau đớn:

-Anh nói vậy nghĩa là sao?

-Đừng bắt anh nói gì nữa Diễm ạ. Anh cũng chẳng hứa hẹn được gì. Đừng quên một điều quan trọng là anh là một người lính. Anh còn có bổn phận của anh.

Diễm thẫn thờ, đứng nghệt mặt ra. Hạnh phúc mới vừa đó mà đã bay vút đi. Huân đưa tay nắm tay Diễm, vuốt ve gò bàn tay, cúi đầu xuống. Giọng chàng thật mềm mại và thật ấm:

-Anh chỉ nói được một điều trong lúc này là anh yêu em, anh sẽ yêu em mãi mãi…

Kể từ khi quen nhau, Diễm chưa bao giờ thấy mình thật gần Huân mà lại thật xa Huân như lúc này. Nàng mơ hồ mường tượng ra rằng, chia tay lần này, chắc sẽ không còn bao giờ còn gặp nhau nữa. Diễm nhẹ nhàng rút tay ra khỏi tay Huân, gạt nước mắt rồi bỏ ra ngoài ban công đứng nhìn xuống đường. Huân nhìn theo, cặp mắt như ngây dại. Chàng lắc đầu, nghĩ thầm rằng trời sinh mình ra để bị đàn bà làm khổ và làm khổ đàn bà. Ai gặp mình rồi cũng khổ cả, dù có tình yêu hay không.

Huân quay mặt lại, mồi lửa một điếu thuốc, nói với Tú:

-Thôi uống đi mày! Phần số nước mình nó như vậy rồi, có lo lắng cũng chẳng làm được gì. Bọn mình phải chuẩn bị để chết. Nhưng dù có chết đi nữa thì mình cũng tự an ủi được một điều là mình đã làm hết bổn phận mình… Xuống dưới suối vàng, thằng nào lạng quạng mình… đá thấy mẹ.

Nụ cười nở nhạt trên môi Tú rồi tắt đi ngay. Chàng nâng ly nhưng lại bỏ xuống, cất giọng buồn buồn hỏi:

-Mày nhớ bọn thằng Thành thằng Xú không?

-Nhớ, chết trận An Lộc. Sao mày hỏi vậy?

-Không ngờ rằng rốt cục, tụi nó chết trước mà lại sướng hơn mình. Chúng nó còn được thiên hạ lập mộ chí và được nhân dân miền Nam nhớ đến qua hai câu thơ: “An Lộc Địa Sử Ghi Chiến Tích, Biệt Kích Dù Vị Quốc Vong Thân”… Riêng bọn mình, sau trận Ban Mê Thuột này thì chỉ mong mỗi đứa có được một nấm mộ cho đỡ tủi thân mà thôi…

-Nhằm nhò gì, chết là hết. Uống đi mày, “Túy ngọa sa trường quân mặc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi…”

Trường sơn Lê Xuân Nhị

 

Tag Cloud